Tục lễ thờ cúng Táo công
Trong các vị thần thời cổ, Táo thần (thần bếp) là vị thần theo sát cuộc sống của mọi người với vai trò là tay chân của Ngọc hoàng đến với muôn nhà, thường ngày ghi lại những công tội, tốt, xấu của mọi người để đc hàng năm vào ngày 23 tháng Chạp lại trơ về tròi báo cáo vối Ngọc Hoàng, làm cơ sở để cho Ngọc Hoàng thưởng cho cái tốc và phạt cái xấu, cái ác. Trong “Bão phác tử” của Tấn Cát Hồng còn nói: căn cứ vào cuối tháng, Táo thần lại về trời để phản ánh tình hình nhân gian. Nếu ai có lỗi với Táo thần (Việt Nam hay gọi là Táo quân) sẽ bị Táo quân báo cáo với Ngọc Hoàng, tội nghiêm trọng thì bị cắt bớt 300 ngày sống, nếu tội nhẹ thì cũng bị cắt bớt 100 ngày sống. Kiểu phạt bằng cách cướp đi thời gian sông của loài người thì ai mà không sợ.
Thờ cúng Táo công
Chính vì thế, thời cố dân gian hầu như nhà nào cũng hết sức thành tâm thờ cúng Táo quân, không giám đơn sai. Tất nhiên mọi người thờ cúng Táo quân không chỉ vì sợ mà mọi người muốn cầu xin Táo quân ban cho mình những điều tôt đẹp. Sách “Hậu Hán Thư” có ghi một câu chuyện như sau: Vào năm Hán Tuyên Đê phong tước, có một người tên là Ảm Tử Phương nấu cơm vào sáng sớm mồng 8 tháng chạp (mồng 8 tháng 12 âm lịch), Táo thần đột nhiên xuất hiện. Nhà anh ta lúc này chỉ có một con chó, thê là Âm Tử Phương giết liền con chó đế cúng Táo thần (chó được dùng đế cúng tê gọi là “Hoàng Dương”). Từ đó Âm Tử Phương luôn gặp vận may, trơ thành nhà giàu một cách nhanh chóng. Gia đình anh ta hưng thịnh, làm nhà cao cửa rộng, không chỉ làm nhà ngói mà còn có ruộng tối 700 khoảnh (đơn vị đo diện tích của Trung Quốc). Ăn thì toàn sơn hào hải vị, mặc thì toàn lụa là gấm vóc. Con nhà Âm Thức, Âm Hưng đều được sáng láng, được làm quan to trong triều. Tin tức truyền đi mọi người còn biết được Táo thần còn đem lại của cải giàu có cho mọi người, thê là uy phong của Táo thần ngày càng lốn.
Câu chuyện được thêu dệt nhằm mục đích ổn địnli trật tự xã hội, buộc dân chúng phải an phận thủ thường. Còn việc dân gian cúng Táo thần là bắt nguồn từ sự sùng bái của loài người đối với “lửa”. Từ thửa hoang sơ con người vật lộn với thiên nhiên, và học được cách dùng lửa. Lửa đem lại ánh sáng, hơi ấm cho con ngườ. Với thức ăn chín nhờ có lửa khiến cho con người khỏe mạnh, cường cháng hơn. Lửa dần dần trỏ thành một trong những vật sùng bái tự nhiên của con người, vào mùa hè hàng năm người ta thường cúng táo thần. Họ cho rằng Táo thần ban phúc cho loài người. Đông lửa không bao giờ tắt, phải được ủ và đốt trong bếp, vì thế thần lửa và thần bếp (Hỏa thần và Táo thần) là một. Đời Hán, các đại sư nhà nho đã có cuộc tranh luận về Táo thần là nữ hay nam. Hứa thuận dẫn kinh điển nói Táo thần là nam; Trịnh Huyền thì xuất phát từ thực tê phụ nữ là người nấu bếp chủ trì việc ăn uông và cho rằng Táo thần là nữ. Cuộc luận giới tính của Táo thần phản ánh quá trình diễn biến của tục thờ cúng Táo quân và dùng lửa đề nấu thức ăn, từ thời hoang sơ tiến vào xã hội Mẫu hệ, việc quản lý lửa thiêng và dùng lửa đê nướng thức ăn rồi chia cho từng người trong bộ lạc đều do một phụ nữ có uy tín tối cao trong bộ lạc đảm nhận, vì thê Táo thần cũng được tạo ra từ hình tượng nữ tính, vào thời kỳ phụ hệ, tất cả mọi quyền lục từ tay người phụ nữ chuyển sang cho nam giỏi- giới tính của Táo thần cũng được chuyên từ nữ sang nam.
Từ đó Táo thần là một vị thần linh nam tính đã ăn sâu vào trong lòng mọi người, trơ thành một hình tượng sâu sắc nhất trong xã hội phong kiến. Vào ngày này các gia đình Việt Nam thường làm lễ dâng hương tiễn ông Táo. Ngoài những phẩm vật cúng lễ thường kỳ trong năm, người ta thường mua thêm một hoặc hai con cá chép sông, cúng xong thường phóng sinh (thả) ra ao hồ, sông ngòi vì tin rằng cá chép sẽ hóa rồng đưa ông Táo lên Trời.
Mũ và bài vị thờ ông Táo năm cũ được hóa (đôt) cùng với tiên, vàng (đồ mã) sau khi làm lễ tiễn, đồng thời thay vào bàn thờ: mũ và bài vị mới. Chân hương cũ cũng được hóa cùng với đồ hàng mã cũ. Có người thường dể lại ba chân thang cũ để thờ tiếp.
Lễ ông Táo chầu trời thường được tiến hành vào chiều ngày 23 tháng Chạp âm lịch hàng năm.
Cúng Tiền chủ
Tiền chủ là chủ của một ngôi nhà trưốc tiên, và ở ngôi nhà này cho đến khi tết cũng tồn tại ngôi nhà này.
Theo thời gian, ngôi nhà thay đổi chủ, từ chủ này sang chủ khác. Đó là chuyện bình thường trên trần thế. Nhưng tại cõi âm, người Tiền chủ vẫn nhớ ngôi nhà mà xưa họ đã ở, nên vẫn thỉnh thoảng đi lại thăm nom và coi những người chủ sau của ngôi nhà (không phải là chủ đích thực của ngôi nhà). Do người xưa suy nghĩ như vậy, cho nên các chủ đến ỏ sau, nếu không muốn bị vong hồn người Tiền chủ quấy rối, họ phải lập bàn thờ Tiền chủ.
Bàn thờ Tiền chủ là một cây hương xây ở ngoài sân. Cây hương gồm có một cột trụ cao khoảng 1 mét 6 trở lên, mé trên xây rộng ra như một mặt bàn thờ, có thành ở đằng sau và hai bên. Trên bàn thờ đặt một bình hương. Không có bài vị vì không ai biết tên Tiền chu lu được.
Cúng Tiền chủ vào những ngày rằm, mồng một (ngày sóc vọng), giỗ, tết. Đồ lễ cũng giống như đổ cúng Thổ công. Thậm chí mỗi khi trong nhà có ai đó ốm đau, bệnh tật hoặc gặp chuyện lục đục không hay người ta đều cúng khấn Tiền chủ, cầu sự bình an.