Lễ phục sinh là ngày gì?
Nhiều người biết đến ngày lễ Phục sinh, nhưng không phải ai cũng hiểu rõ nguồn gốc và ý nghĩa của ngày này. Bài viết sau đây sẽ nói cho bạn rõ hơn ngày lễ Phục sinh là ngày gì?
Nội dung
Lịch sử ngày lễ phục sinh
Lễ Phục sinh hay còn gọi là Easter, được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo Kitô giáo (Công giáo, Chính thống giáo, Tin lành, Anh giáo). Ngày lễ này thường được diễn ra vào tháng 3, 4 mỗi năm để tưởng niệm sự kiện Phục sinh của Chúa Giêsu từ cõi chết sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá. Sự kiện này được người Kitô tin là xảy ra vào khoảng thời gian này trong năm 30 – 33 SCN.
Trong đạo Công giáo, Chính thống giáo, Tin lành, Anh giáo ngày lễ Phục sinh trúng vào ngày Chủ nhật giữa ngày 22 tháng 3 và ngày 25 tháng 4. Còn ngày kế tiếp thứ hai gọi là ngày nghỉ lễ chính thức của hầu hết các quốc gia có truyền thống Kitô giáo. Tuy nhiên ngày này không được quy định tại Hoa Kỳ, trừ trước kia ở một số tiểu bang, còn hầu như tất cả đã được bãi bỏ từ thập niên 1980.
Lễ Phục sinh và các ngày nghỉ liên quan đến nó là những ngày lễ di động, có nghĩa không phải một ngày cố định trong lịch Gregorian hay lịch Julian. Thường dựa vào lịch mặt trăng nhưng không giống hệt lịch Do Thái. Do đó ngày chính xác của lễ Phục sinh vẫn còn là đề tài tranh luận.
Vào Công đồng Nicaea thứ nhất năm 325, quyết định ngày lễ Phục sinh sẽ tổ chức cùng một chủ nhật trên toàn giáo hội. Tuy nhiên chưa có phương pháp nào được chỉ định bởi Công đồng. Thay vào đó, việc chọn ngày Phục sinh tham khảo từ giáo hội ở Alexandria (Ai Cập), đây là thành phố nổi danh về sự thông thái vào thời điểm đó. Thành phố này đã tổ chức lễ Phục sinh chọn vào chủ nhật đầu tiên sau ngày thứ 14 đầu tiên của tháng âm lịch xảy ra vào hoặc sau 21 tháng 3. Trong suốt thời Trung cổ, dễ hiểu hơn Lễ Phục sinh xảy ra vào chủ nhật đầu tiên sau ngày trăng tròn đầu tiên hoặc sau ngày xuân phân.
Giáo hội Công giáo đã dùng cách tính riêng để tính ngày cho đến thế kỉ 6, sau đó có lẽ họ chuyển sang cách Alexandria khi đổi sang lịch Julian bởi Dionysius Exiguus. Hầu hết giáo hội trên các nước Anh dùng cách tính Rôma cuối thế kỉ 3 sau đó áp dụng cách tính Alexandria vào Công đồng Whitby năm 664. Các giáo hội ở châu Âu dùng phương pháp Rôma đến cuối thế kỉ 8 trong triều đại Charlemagne, sau chuyển sang phương pháp Alexandria. Còn giáo hội Tây phương (Công giáo, Tin lành, Anh giáo) hiện nay dùng lịch Gregorian để tính ngày phục sinh, còn các giáo hội Chính thống Đông phương lại dùng lịch Julian. Do đó ngày lễ Phục Sinh của họ thường không trùng nhau.
Năm 1997 hội nghị thượng đỉnh ở Aleppo tại Syria, Hội đồng các giáo hội thế giới có đề nghị cải cách phương pháp tính ngày lễ Phục Sinh dựa trên các tính toán theo quan sát thiên văn trực tiếp. Mục đích giúp loại bỏ khác biệt giữa các giáo hội Công giáo, Tin lành, Anh giáo và Chính thống giáo (Đông phương). Từ năm 2001 Cải cách này được đề nghị áp dụng, tuy nhiên nó không được các thành viên sử dụng.
Vị trí ngày lễ Phục sinh trong năm phụng vụ
Với Giáo hội Công giáo
Trong Công giáo, lễ Phục Sinh để đánh dấu việc kết thúc 40 ngày chay tịnh – giai đoạn ăn kiêng và sám hối. Và để chuẩn bị cho lễ Phục Sinh bắt đầu từ thứ tư Lễ Tro và kết thúc vào khuya thứ bảy tuần Thánh.
Tuần trước ngày Phục Sinh là được xem là tuần rất đặc biệt trong truyền thống Kitô giáo, thường gọi là Tuần Thánh. Có chủ nhật trước đó là Chúa nhật Lễ Lá, còn ba ngày cuối cùng trước ngày Phục sinh gọi là Tam Nhật Thánh bao gồm:
- Thứ năm Tuần Thánh (Thứ năm Rửa Chân)
- Thứ sáu Tuần Thánh (Thứ sáu Tốt Lành)
- Thứ bảy Tuần Thánh (Thứ bảy Yên Tĩnh).
Chủ nhật Lễ Lá, Thứ năm Tuần Thánh và Thứ sáu Tuần Thánh để tưởng nhớ đến các sự kiện Chúa Giêsu vào thành Jerusalem, bữa Tiệc Ly và Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá. Vào các ngày thứ sáu Tuần Thánh, thứ bảy Tuần Thánh và Chúa nhật Phục sinh đôi còn được gọi là Tam Nhật Phục sinh.
Một số đất nước lễ Phục sinh kéo dài 2 ngày, trong đó ngày thứ hai gọi là “Thứ hai Phục sinh”. Có một số giáo hội bắt đầu lễ Phục sinh chọn vào cuối buổi tối ngày Thứ bảy Tuần Thánh với lễ Vọng Phục Sinh hay Canh thức Vượt Qua.
Mùa Phục Sinh bắt đầu từ Chúa Nhật Phục Sinh được kéo dài đến lễ Hiện xuống vào 50 ngày sau đó.
Với Giáo hội Chính thống giáo
Trong Chính thống giáo, đây là sự chuẩn bị bắt đầu với mùa Đại Chay. Sau ngày Chủ nhật thứ năm của mùa Đại Chay là Tuần Lá, được kết thúc vào Thứ Bảy Lazarus. Thứ Bảy Lazarus chính thức kết thúc mùa Đại Chay, mặc dù sau đó vẫn tiếp tục việc ăn kiêng cho tuần kế tiếp.
Sau Thứ Bảy Lazarus là đến Chúa Nhật Lá, Tuần Thánh, cuối cùng là lễ Phục Sinh. Sau Tuần Sáng Lễ Phục Sinh không ăn kiêng trong tuần này kể cả thứ tư và thứ sáu.
Phụng Vụ Thánh Vượt Qua được diễn ra vào thời điểm nửa đêm, vào sáng sớm của ngày Vượt Qua. Việc đặt Phụng Vụ Thánh Vượt Qua vào nửa đêm để bảo đảm rằng không có Phụng Vụ Thánh khác vào buổi sáng, để trở thành “Lễ của mọi lễ” trong năm phụng vụ.
Sự Phục sinh của Chúa Giêsu
Theo luận giải của giáo lý Ba Ngôi, Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là người, do vậy có quyền năng phó mạng cuộc sống của mình để cứu nhân loại và phục hồi sự sống ấy. Do đó, sau khi chết ngài đã sống lại. Sự kiện này có viết trong thuật ngữ Cơ Đốc và trở thành ngày lễ tôn giáo quan trọng được hầu hết tín hữu Cơ Đốc cử hành hằng năm vào Chúa nhật Phục sinh. Ở Cơ Đốc tất cả đều chấp nhận những ký thuật của Tân Ước về sự sống lại của Chúa Giêsu là dữ kiện lịch sử và là trọng tâm của đức tin. Tuy nhiên, người không thuộc Cơ Đốc giáo xem sự kiện này như là một huyền thoại hoặc tìm cách giải thích nó theo cách ẩn dụ
Các sách Phúc âm đều ký thuật rằng Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá vào chiều thứ Sáu. Sau đó thi hài của ngài được bọc trong vải liệm trắng rồi mai táng trong ngôi mộ mới mà Joseph người Arimathea đã cho đục trong đá cho ông. Sau thứ Bảy thì vào sáng ngày thứ nhất trong tuần lễ một số người phụ nữ là môn đồ của Chúa Giêsu trở lại ngôi mộ để hoàn tất nghi thức an táng. Khi đến nơi họ thấy ngôi mộ trống không, sau đó họ trở lại với sự tháp tùng của vài môn đồ nam giới.
Về sau Chúa Giêsu đã xuất hiện nhiều lần để gặp gỡ các môn đồ, chú ý nhất là khi ngài đến với họ tại phòng cao. Và ở đó Thomas không chịu tin ngài cho đến khi Chúa Giêsu bảo ông chạm vào dấu đinh trên tay và dấu đâm trên hông của ngài. Chúa Giêsu đã đến cùng hai môn đồ đang khi họ trên đường đến thành Em-mau. Họ đã bàn tán với nhau về nỗi thất vọng vì ngài Messiah nay đã bị giết bởi tay loài người, trước khi họ nhận ra ngài. Đến gặp các môn đồ bên bờ Biển Galilee để khích lệ Peter vững tâm mà giúp đỡ các môn đồ khác. Cuối cùng Chúa Giêsu hiện ra với các môn đồ là bốn mươi ngày sau khi sống lại, rồi ngài lên trời.
Khi đem so sánh những văn kiện về sự phục sinh, một số người tìm thấy những chi tiết khác nhau và họ cho rằng không thể dung nạp chúng vào một câu chuyện đồng nhất. Cho dù John Wenham cũng như các học giả khác giải thích rằng các chi tiết này là bổ sung cho nhau. Theo quan điểm của nhiều tín hữu Cơ Đốc, không có gì là quá khó hiểu khi nhiều người cùng chứng kiến một sự kiện, thì họ sẽ thuật lại sự kiện ấy với những chi tiết khác nhau vì nhìn từ những góc độ khác nhau.
Các quan điểm xung quanh việc Phục sinh
Sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu là các sự kiện quan trọng trong lịch sử và thần học Cơ Đốc giáo. Để khẳng định quyền của Chúa Giêsu trên sự sống và sự chết,sau đó ngài có quyền ban cho con dân ngài sự sống vĩnh cửu. Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa đã làm ngài sống lại từ kẻ chết, ngài lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa, và sẽ trở lại để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah.
Hầu hết tín hữu của Cơ Đốc xem câu chuyện phục sinh trong Tân Ước là dữ kiện lịch sử, và là trọng tâm của đức tin. Một số học giả lại cho rằng chính nhờ xác quyết vào sự sống lại của Chúa Giêsu mà các môn đệ của ngài đã dạn dĩ đi rao giảng phúc âm và thành lập hội thánh.
Với đạo công giáo
Theo quan điểm Công giáo thì cho rằng Chúa Giêsu tự nguyện hiến mình như là một hành động phục trọn vẹn để đền tội cho sự bất tuân của Adam. Do vậy ngài tẩy sạch nhân loại khỏi vết ố của nguyên tội. Sự việc hiến tế của Giêsu là hành động của tình yêu, đã làm vui lòng Thiên Chúa. Và là lớn hơn tội lỗi loài người đã xúc phạm Thiên Chúa. Do đó hễ ai tin Chúa Giêsu và tuân giữ mạng lịnh của ngài sẽ nhận lãnh sự cứu chuộc trong danh ngài.
Tín hữu Công giáo cho rằng một người có thể bị vuột mất ân điển nếu như cứ tiếp tục phạm tội sau khi được cứu rỗi. Một người có thể được phục hồi vào ân điển qua thánh lễ ăn năn và xưng tội.
Với đạo Tin lành
Theo quan điểm của Martin Luther về sự phục sinh của Chúa Giêsu, thường được gọi là Luận điểm Pháp chế. Được chấp nhận bởi đa số tín hữu Phản Kháng (Protestant), đây được xem là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc Cải cách Phản Kháng.
Giáo thuyết này cho rằng Thiên Chúa là Đấng Phán xét. Khi con người đã phạm tội, vì theo sự công bình của Thiên Chúa nên Ngài phải đoán phạt con người. Nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng yêu thương, cho nên giải pháp được chọn là thoả mãn cả đức công bình lẫn đức yêu thương của Thiên Chúa là sai Con Ngài. Tức là Đấng hoàn toàn vô tội, đến để gánh thay tội lỗi của thế gian trên vai Ngài. Nếu ai chấp nhận món quà hiến tế này của Chúa Giêsu đều được giải thoát khỏi xiềng xích của tội lỗi.
Như thế, qua sự việc chết của Chúa Giêsu Cơ Đốc, thời kỳ Cựu Ước đã qua đi và mọi sự trở nên mới. Sự phân cách giữa Thiên Chúa và con người đã bị xóa bỏ, con người được tự do tìm kiếm sự cứu lỗi cho mình qua Đấng Trung bảo duy nhất là Chúa Giêsu. Mà không còn phải tìm kiếm sự cứu rỗi qua thánh lễ, quy tắc, hoặc qua hàng giáo phẩm đặc quyền. Những ai ủng hộ quan điểm này thường tin rằng chỉ có tấm lòng chấp nhận sự hy sinh của Chúa Giêsu Cơ Đốc là điều kiện để được cứu rỗi, chứ không phải nghi thức hoặc thánh lễ.
Quan điểm về sự phục sinh của Chúa Giêsu này phù hợp với Đại lễ chuộc tội của người Do Thái theo luật pháp Moses. Ngày ấy, người Do Thái chọn một con dê đực không tì vết để thầy tế lễ thượng phẩm đặt tay trên con dê đực còn sống, xưng trên nó các gian ác và sự vi phạm. Có nghĩa là những tội lỗi của dân Israel, và chất trên đầu nó, rồi nhờ một người chực sẵn việc này mà sai đuổi nó ra, thả vào đồng vắng. Do vậy, con dê đực này sẽ gánh trên mình các tội ác của dân Israel nơi hoang địa.
Quan điểm Christus Victor
Quan điểm Christus Victor (Chúa Cơ Đốc Đấng chiến thắng) trong cộng đồng Chính Thống giáo Đông phương, cho rằng Chúa Giêsu được sai đến để đánh bại sự chết và Satan. Do sự chết tự nguyện và trọn vẹn, cùng với sự phục sinh của Chúa Giêsu mà ngài đánh bại Satan và sự chết, để rồi phục sinh trong chiến thắng. Do đó mà nhân loại không còn bị ràng buộc trong tội lỗi, nhưng được tự do phục hoà với Thiên Chúa bởi đức tin vào Chúa Giêsu.
Trái với quan điểm pháp chế, thuyết Christus Victor đã nhấn mạnh trận chiến tâm linh giữa thiện và ác. Trong khi thuyết pháp chế cho rằng Thiên Chúa đoán phạt Chúa Giêsu vì tội lỗi của nhân loại. Còn thuyết Christus Victor nhìn thấy loài người, từng bị cầm giữ trong quyền lực của Satan, nay quyền lực này bị Chúa Giêsu đánh bại. Như thế Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, đã phá vỡ xiềng xích của Satan.
Tín hữu Cơ Đốc theo khuynh hướng tự do và xem sự kiện phục sinh không gì khác hơn là một biểu tượng tôn giáo về niềm hi vọng. Và họ chấp nhận sự kiện này giống như huyền thoại có tính biểu trưng cao và có tác dụng nuôi dưỡng tâm linh. Sự kiện phục sinh không phải là một vấn đề lịch sử nhưng nó là một thái độ tôn giáo. Những người theo khuynh hướng này thì họ bác bỏ luận điểm cho rằng Chúa Giêsu đã thật sự sống lại trong thể xác.
Quan điểm Hồ nghi
Hầu hết người không thuộc Cơ Đốc giáo sẽ không chấp nhận việc Chúa Giêsu thật sự sống lại trong thân xác. Nên họ xem sự kiện này như một huyền thoại, hay đồng ý với quan điểm tự do để xem nó như một huyền thoại có sức mạnh hỗ trợ cho lòng sùng tín.
Các giả thuyết khác
Có những giả thuyết đã được đưa ra để giải thích sự kiện phục sinh theo quan điểm khác nhau:
Các môn đồ đã trộm xác của Chúa Giêsu khỏi mộ, sau đó dựng nên câu chuyện phục sinh.
Chúa Giêsu lúc đó chỉ bị ngất đi vì kiệt sức khi bị đóng đinh trên thập giá, cũng có thể ngài đã bị đánh thuốc. Sau đó ngài hồi tỉnh trong phần mộ.
Không phải là sự sống lại trong thể xác mà đây là một sự hiện thấy đối với các môn đồ. Hay là một sự hiện thấy siêu nhiên, cũng có thể chỉ là ảo giác.
Quan điểm người Do Thái trong Toledoth Yeshu tin rằngg xác của Chúa Giêsu bị dời đi ngay trong đêm ngài bị đóng đinh.
Theo Hồi giáo, Chúa Giêsu không bị đóng đinh mà là một người khác giống Chúa Giêsu đã chết thay cho ngài.
Kinh Phúc âm của Barnabas, cho rằng Chúa Giêsu không bị đóng đinh mà Judas đã thế chỗ của ngài.
Một số tài liệu của sử gia Nga Nicolai Notovitch công bố, Chúa Giêsu sống trọn cuộc đời mình tại Kashmir sau khi phục sinh. Ở đó có lẽ có phần mộ của Chúa Giêsu được đặt tên Yuz Asaf.
Theo suy diễn của một số người như ký thuật của Tân Ước, họ cho rằng sau đó Chúa Giêsu kết hôn, có con và cùng vợ đến sống ở miền Nam nước Pháp hoặc Glastonbury nước Anh.
Ý nghĩa của Phục sinh với người Kitô giáo
Trong tâm thức của người Kitô giáo, ngày lễ Phục sinh có ý nghĩa rất quan trọng là niềm mong đợi vui mừng trong mùa lễ Phục sinh.
Niềm tin của tín đồ kỷ niệm hằng năm trong ngày lễ Phục sinh và hằng tuần trong ngày Chúa nhật. Phục sinh được xem là một trong các giáo lý quan trọng nhất và được Thánh Kinh Tân Ước nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Còn Sứ đồ Phao-lô đã dành chương 15 trong lá thư ông gởi các tín hữu tại Cô-rinh-tô để viết về giáo lý này.
Một số phong tục trong ngày lễ Phục sinh
Lễ Phục sinh một thứ không thể thiếu là những quả trứng sặc sỡ với các nét vẽ trang trí. Đây được xem biểu tượng cho sức sống mới bừng dậy trong mùa xuân.
Trên bàn tiệc Phục sinh luôn có quả trứng sôcôla hoặc trứng nhuộm không thể thiếu .Những ngày trước lễ Phục Sinh mọi người rất dễ tìm mua những hộp thuốc màu để vẽ trứng ở bất kỳ đâu. Với những ai có nhiều thời gian và kiên nhẫn cũng có thể nhuộm trứng bằng các màu sắc của cây cỏ tự nhiên. Một số màu tự nhiên như màu xanh của lá rau, màu đỏ của trái dâu, màu vàng của phấn hoa. Những quả trứng màu trắng sẽ được tô vẽ bằng màu nước hoặc bút dạ, rồi được tết thêm dải băng xinh để trang trí cho vòng hoa Phục sinh ở nhà.
Lửa Phục sinh và trứng Phục sinh: xua đi mùa
Một trong những phong tục Phục sinh nổi tiếng nhất ở Đức là những ngọn lửa Phục sinh. Chúng được thắp lên hầu hết ở các vùng nông thôn Bắc Đức. Và trong các khu vườn nơi đô thị hay dọc theo triền sông Enbơ cũng có những ngọn lửa. Mọi người thường tụ tập đốt lửa vào ngày thứ bảy trước lễ Phục sinh, ở một số nơi lại vào chủ nhật hoặc thứ hai.
Từ thế kỷ 16, Lửa Phục sinh trở thành phong tục dân gian, có bắt nguồn từ những tập tục có từ trước công nguyên. Theo đó, hơi ấm và ánh sáng của ngọn lửa sẽ xua đi mùa đông. Thêm vào đó lửa sẽ làm cho đất đai trở nên màu mỡ hơn. Theo truyền thống đạo thiên chúa thì ngọn lửa Phục sinh là biểu tưởng của việc Đức Chúa hồi sinh.
Một dạng của lửa Phục sinh là bánh xe Phục sinh. Tại vùng Lügde thuộc bang Nordrhein-Westfalen những bánh xe bằng gỗ được đốt cháy rừng rực lăn từ núi Phục sinh xuống. Đi kèm sau đó một vệt lửa dài hàng trăm mét. Cách đây khoảng 2000 năm, những bánh xe cháy sáng được mọi nguôd xem là biểu tượng của mặt trời và chấm dứt mùa đông.
Cưỡi ngựa Phục Sinh ở Oberlausitz
Vào ngày chủ nhật Phục Sinh, những người đàn ông mặc lễ phục cưỡi ngựa đã được trang hoàng lộng lẫy, rồi rong ruổi trên khắp vùng Oberlausitz, bang Sachsen.
Theo phong tục cổ, có khoảng 1.600 kỵ sỹ Phục Sinh ngồi trên yên ngựa với lòng mộ đạo sâu sắc. Trên đường đi sang xứ đạo khác, họ mặc trên mình lễ phục đen, đầu đội mũ ống loan tin Chúa Giêsu đã phục sinh.