Sự linh ứng của Chú Đại Bi
Thần Chú Đại Bi được rút ra từ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, do chính Đức Phật Thích Ca diễn nói trong một pháp hội, trước mặt đông đủ các vị Bồ Tát, Thinh văn, Thánh chúng, Trời, Thần, Thiên, Long, các Đại thánh tăng như Ma Ha Ca Diếp, A Nan…
Cùng câu hội, tại núi Bồ Đà Lạc Ca (Potalaka), một hải đảo ở về phía Nam xứ Ấn Độ, được coi như là nơi mà Đức Bồ Tát Quán Thế Âm thường trụ tích. Ta có thể tin chắc điều đó, bởi vì Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn được mở đầu bằng câu nói quen thuộc của Ngài A Nan “Như thế tôi nghe”, cũng như xuyên qua nội dung hỏi đáp giữa ngài A Nan và Đức Thế Tôn, đã được ghi lại ở trong kinh.
Trong pháp hội này, Bồ Tát Quán Thế Âm vì tâm đại bi đối với chúng sanh, muốn cho “chúng sanh được an vui, được trừ tất cả các bệnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được tăng trưởng công đức của pháp lành, được thành tựu tất cả các thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu” mà nói ra Thần Chú này.
Nội dung
Sự linh ứng của Chú Đại Bi trong việc cầu sinh con
Câu chuyện 1: Câu chuyện của bạn Hoatubi:
su linh ung cua chu dai bi
Hôm nay, sau một vài lần cân nhắc liệu có nên viết về câu chuyện của gia đình mình hay không, Hoatubi đã quyết định đặt bút viết bài. Câu chuyện Hoatubi muốn chia sẻ với các bạn đó là sự linh ứng của Chú Đại Bi và câu phật hiệu A Di Đà Phật.
Trước tiên Hoatubi muốn nói một chút về bản thân. Hoatubi năm nay 28 tuổi còn vợ thì ít hơn 2 tuổi, hai vợ chồng lấy nhau hơn một năm mà chưa có con, hai bên nội ngoại đều rất nóng lòng có cháu. Nhiều khi vợ Hoatubi dường như bị trầm uất, Hoatubi cũng chỉ biết động viên cô ấy ăn uống và đừng nghĩ ngợi gì cả, cái gì phải đến thì một lúc nào đó sẽ đến.
Lại nói thêm, Hoatubi và vợ sức khỏe đều không được tốt, nay đã lấy nhau hơn 1 năm mà chưa có con, Hoatubi hiểu rằng hai vợ chồng phước mỏng, nghiệp dày, chỉ còn cách tu hành giải nghiệp mà thôi.
Bản thân Hoatubi lúc này đã hành trì Ngũ bộ chú của cư sĩ Triệu Phước đã chừng nửa năm và bắt đầu chuyển sang tu tịnh độ. Mỗi ngày vào thời khóa hành trì buổi tối, Hoatubi thường trì 3 biến Chú Đại Bi sau đó chuyển sang niệm phật 1080 biến (cũng xin nói thêm là Hoatubi không có ban thờ phật, chỉ hành trì trong phòng riêng của hai vợ chồng thôi, Hoatubi phải nói ra điều này để vững tâm các bạn đạo mới phát tâm tu học, đừng e ngại khi gia đình chưa có ban thờ phật).
Trong kinh điển có đề cập rằng Chú Đại Bi có năng lực không thể nghĩ bàn, nếu hành giả trì một lòng tín tâm thọ trì thì mọi mong ước chi đều được như nguyện, cầu con trai, con gái tất sinh con trai, con gái,…Hoatubi từ khi giác ngộ phật pháp đã nguyện vãng sanh Tây Phương ngay trong kiếp này, nay nghe kinh điển chỉ dạy như vậy, lòng không chút nghi hoặc, phát tín tâm thọ trì. Sau mỗi thời khóa hành trì, Hoatubi đều khấn nguyện Đức Phật mở lượng từ bi, gia hộ cho vợ chồng Hoatubi sớm có con.
Chừng hơn một tháng sau khi chuyển sang tu tịnh độ, Hoatubi đã khuyên được vợ mình niệm phật. Cô ấy hành trì cũng không thường xuyên, Hoatubi vẫn phải động viên nhắc nhở. Như trên Hoatubi đã nói, biết vợ chồng mình phước mỏng nghiệp dày, hành trì ở nhà chưa thể đủ để giải nghiệp, Hoatubi lại cùng vợ mình lên chùa dâng hương, công đức và làm một số việc thiện khác. Mỗi lần như vậy Hoatubi đều nguyện 2 điều: 1 là cầu xin Đức Phật gia hộ cho vợ chồng Hoatubi luôn giữ được chánh niệm, mạng chung được vãng sanh tây phương; 2 là cầu xin Đức Phật thương xót, ban ân phước cho vợ chồng Hoatubi một đứa con.
Song song cùng với việc tu hành, làm công đức giải nghiệp, hai vợ chồng Hoatubi vẫn tiếp tục dùng thuốc (trước khi tu học, hai vợ chồng cũng đã uống thuốc nhiều nhưng không có kết quả). Đến chừng khoảng 2-3 tháng sau kể từ khi vợ Hoatubi biết niệm phật, làm công đức cùng với điều trị mà chưa có kết quả gì, cô ấy thực sự chán chường nên không còn uống thuốc nữa (điều này cô ấy giấu, mãi sau Hoatubi mới biết), còn về việc tu hành, Hoatubi vẫn luôn động viên cô ấy một lòng tin tưởng nơi Đức Phật. Hai tuần sau (kể từ ngày dừng uống thuốc) thì cô ấy âm thầm mua que thử và kết quả là hai vạch, lúc này cô ấy vẫn chưa cho Hoatubi biết, đến sáng hôm sau, cô ấy quyết định thử cả 4 que nữa thì cả 4 que cũng đều hai vạch, lúc này cô ấy mới cho Hoatubi biết.
Hai vợ chồng rộn lên một niềm vui khôn xiết, lòng thầm tạ ơn Đức Phật. Tuy vậy vẫn còn chưa chắc chắn lắm bởi điều này đến quá bất ngờ, đến trong lúc hai vợ chồng rất chán chường, chỉ còn biết ngóng trông nơi ân phước của Đức Phật. Rồi Hoatubi đưa vợ đến nhà thầy thuốc, thầy bắt mạch và xác định có thai nhưng chưa nghe thấy tim thai. Lúc này hai vợ chồng mới chỉ chắc chắn thêm một chút, thầy hẹn vài ngày sau đến kiểm tra lại. Ba ngày sau, thầy bắt mạch và nói đã nghe thấy tim thai. Để kiểm tra một cách chắc chắn, Hoatubi đưa vợ đi siêu âm tại một cơ sở tư nhân nhưng kết quả là chỉ thấy túi ối, chưa có tim thai, một tuần sau đến kiểm tra lại. Quá sốt ruột, 3 ngày sau Hoatubi đưa vợ đến phòng khám tư của một bác sĩ viện Bạch Mai. Thật mừng làm sao khi nghe bác sĩ nói đã có thai trong tử cung, tim thai đã nghe thấy, thai phát triển bình thường. Khi nghe thấy tim con mình đập, Hoatubi thật hạnh phúc vô cùng, khi viết những dòng này lòng vẫn còn vô cùng xúc động.
Trên đây là câu chuyện linh ứng vừa mới đến với vợ chồng Hoatubi, Hoatubi xin chia sẻ cùng các đạo hữu với mong muốn:
– Một là minh chứng để củng cố tín tâm cho các đạo hữu mới phát tâm tu học. Tâm chí thành tất linh ứng dù rằng gia đình các đạo hữu chưa có điều kiện để thờ Đức Phật.
– Hai là bài viết này có thể đem lại lợi ích nào đó cho một số cặp vợ chồng đạo hữu cũng chưa có con.
Hoatubi cũng xin bày tỏ thêm một vài suy nghĩ của mình: Hoatubi thấy nhiều người đi khắp nơi cầu con, có người thì đi chùa dâng lên Đức Phật đĩa trái cây, bánh kẹo, có người thì có thêm phần công đức cho nhà chùa. Khi về nhà rồi không biết tu hành, làm phước giải nghiệp cho bản thân, con cháu. Thực là một thiếu sót lớn. Nếu chỉ dâng lên Đức Phật đĩa trái cây, công đức một chút cho nhà chùa thì làm sao đủ phước đức để giải được nghiệp, làm sao để mà cầu được con. Nghiệp ác trong nhiều kiếp kể làm sao xiết, giải làm sao hết? Phải là người biết, tin sâu nhân quả, một lòng thành kính, tin tưởng nơi Đức Phật, tự lực tu hành, làm phước, độ tha thì mới có hi vọng lời cầu nguyện được linh ứng.
Câu chuyện 2:
Đây là một câu chuyện hoàn toàn chân thực, sau khi bạn đọc xong, bạn không thể không tin đó là sự thực. Chuyện bắt đầu từ 10 năm trước tức năm 1997, lúc đó tôi đã kết hôn được vài năm, trải qua biết bao gian nan khổ cực mới an cư lạc nghiệp.
Tôi bắt đầu lên kế hoạch sinh con, qua vài tháng nhưng không có thai, lúc đó tôi bắt đầu lo lắng. Tôi đi kiểm tra chi tiết tại bệnh viện chuyên khoa, nhưng tất cả đều bình thường! Bác sĩ cũng kê cho tôi một ít thuốc uống, nhưng qua mấy tháng cũng không có kết quả gì. Tôi cũng đi kiểm tra tại bệnh viên chuyên khoa mấy lần, nhưng kết quả vẫn vậy. Bản thân tôi là một nhân viên làm trong bệnh viện, đối với y học cũng có hiểu biết nhất định. Nhưng không tài nào hiểu được vì sao tôi không thể có thai. Điều này làm tôi rất hoang mang lo lắng.
Qua bạn bè và người thân giới thiệu, tôi chuyển hướng sang phối hợp điều trị Đông Y, thuốc sắc đông y không biết tôi uống bao nhiêu thang nữa. Cứ như vậy lại qua nửa năm, nhưng cũng không có dấu hiệu nào xuất hiện, tôi thực sự thất vọng và buồn chán. Bạn bè và người nhà thấy vậy khuyên tôi đi hỏi Thần linh. Nói ra thật xấu hổ, bản thân vốn là một Phật tử, nhưng cũng chỉ là một phàm phu tục tử, không có gì đặc biệt hơn người khác cả, đứng trước tuyệt vọng, còn cái gì có thể thử được thì đều làm, chỉ mong có được đứa con mà thôi. Trong hơn nửa năm, tôi cả thảy mời thần linh ba lần, cũng dựa theo cách của họ hướng dẫn. Nhưng cũng không có hiệu quả.
Tây y, Đông Y, Thần linh đều đã thử rồi, đi đi lại lại thấm thoát đã gần hai năm, thực sự số phận an bài, có thì ắt sẽ có, không có thì muốn cũng không được, nhưng tôi thực sự không cam tâm. Trong tình cảnh không còn cách nào khác, tôi quyết định dùng một trong những pháp môn mà tôi tu tập nhiều năm, là pháp môn phổ biến của các Phật tử, đó là trì niệm Chú Đại Bi và danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Sau khi tắm rửa, mặc quần áo chỉnh tề, dựa theo nghi quỹ sám hối chuẩn bị: hương, hoa, nến, quả, trà, sau đó phát nguyện: đệ tự tên là xyz, cầu xin Quan Thế Âm Bồ Tát từ bi xót thương, ban cho đứa con trai, để tận hiếu đạo, đệ tử nguyện mỗi ngày trì tụng Chú Đại Bi 20 lần, dù mưa dù gió, thời hạn là một năm. Cố gắng giữ Phật quy ngũ giới, hôm nay nguyện hành thọ, hộ trì Phật Pháp (phóng sinh, bố thí, tán trợ Phật pháp và Kinh Thư), không dám vi phạm.
Tôi phát nguyện từ tháng 9 năm đó, đến cuối năm sau vẫn không có, tôi bắt đầu hoài nghi có phải tôi làm không đúng pháp, hay là mệnh đã ấn định, trong lòng quả thực thất vọng không thể hình dung được. Thật không ngờ vài hôm sau sau tôi cảm thấy cơ thể có dấu hiệu khác thường liền đi khám. Sau khi bác sĩ kiểm tra, kết luận tôi có tin vui. Tôi sung sướng muốn òa khóc, Quán Thế Âm Bồ Tát quả thực linh ứng cho tôi một đứa con trai như ý muốn.
Một năm sau, tôi lại dựa theo Đại Bi sám hối nghi quỹ trên, cầu xin một đứa con gái, cũng được như sở nguyện.
Hiện nay con trai tôi đã 7 tuổi, con gái 5 tuổi, hai đứa đều rất đáng yêu. Chính nhờ Quan Thế Âm Bồ Tát, nhờ sự linh ứng của Chú Đại Bi mà tôi có được ngày hôm nay. Hôm nay viết lại chuyện này hoàn thành tâm nguyện và lời hứa với Bồ Tát sẽ mang sự thực này viết lại và kể cho mọi người được biết. Hy vọng có thể giúp được những ai trong hoàn cảnh như tôi tìm được lối thoát cho bản thân mình. Hãy thành tâm, cung kính trì tụng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và Chú Đại Bi, nhất định sẽ được Ngài cứu giúp!
——————
Câu chuyện của ni sư Thích Nữ Lệ Phát trụ trì chùa Châu An
THẦN CHÚ GIẢI ĐẶNG NGHIỆP CHƯỚNG CHO SÁNG MẮT
Tôi ni sư Thích Nữ Lệ Phát trụ trì chùa Châu An số 498/1/2 Lê Quang Định, Phường 1, Quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh. Tôi xin kể ra đây một sự thật 100% sự mầu nhiệm linh ứng của oai thần lực chú Đại Bi và chú OM MA NI PAD MÉ HUM, để quí tu sĩ cùng Phật tử trong và ngoài nước khi đọc xong bài nầy phát tâm trì niệm thần chú để cùng cộng hưởng phước báu của chư Phật.
NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Tôi xin nói sơ về nguyên nhân nào mà tôi trì chú. Vị đạo sư truyền dạy là ai? Vị đó đạo hạnh như thế nào? Vì muốn học một pháp môn nào, phải chọn vị thầy dạy có tài, có đức, đạo hạnh song toàn, để mình gởi phần linh hồn đúng không?
Vào năm 1992, Chân An Tự chúng tôi tiếp một vị tu sĩ từ hải ngoại về. Thầy đến để tặng quà cho một số tăng ni trẻ nghèo hiếu học (gần 30 vị).
Chiếc Honda chở thầy dừng lại. Tôi hồi hộp xem vị tăng ni như thế nào? (Lúc đó có rất ít tu sỉ hải ngoại về nước). Một vị ngoại quốc ốm cao, dáng thanh thoát, đầu đội nón tai bèo, chân mang dép da, áo tràng nâu đã bạc mầu sương gió. Thầy là người Pháp sinh tại Việt Nam. Một sự kinh ngạc vô cùng! Nhìn thầy không khác quý cha dòng FRANCISCO khổ hạnh từng ở tại Việt Nam giúp đỡ dân nghèo rất nhiều. Niềm tôn kính xâm chiếm tâm hồn tôi. Đại đa số quý thầy cô ở nước ngoài về ăn mặc sang trọng không khổ chê, còn vị nầy sao khổ hạnh thế? Thầy trang nghiêm ngồi vào ghế. Sau lời giới thiệu và nói ý định giúp đở chư tăng ni đang thiếu thốn để đặng đi học. Thầy đứng lên phát biểu. Lời nó thầy sao mà êm dịu, nhã nhặn, nhắc nhỡ chư tăng ni trẻ, ráng giữ đạo hạnh tu học, chớ buông giải đãi. Ở nước ngoài tu cực lắm, chớ phải sung sướng gì đâu. Thầy cầm từng phong thư (Một Trăm Ngàn Đồng) trao từng vị. Thấy hạnh của Thầy khiêm hạ như thế! Sau cuộc họp mặt thân mật, Thầy ra về. Hình bong vị tu sĩ khổ hạnh nầy làm tôi suy nghĩ mãi. Làm sau hầu chuyện với Thầy một lần để tìm hiểu hạnh tu của vị nầy? Công việc thầy quá bận rộn, không có thời giờ rảnh, biết chừng nào ghé lại đậy Tôi thầm van vái Phật cho con đặng hầu chuyện với vị nầy.
Tự nhiên tuần sau Thầy ghé chùa Từ Quang ban đêm để thăm thầy Nhật Thiện. Thầy muốn ở lại nhưng bên đó khó khăn về chỗ ở, thế là thầy sang Châu An xin ở lại một đêm. Trong khi đại chúng dọn phòng cho thầy, tôi mời thầy ngồi để tìm hiểu về thầy. Tôi hỏi: Bạch Thầy ở Viêt Nam thầy rất khổ, mục đích vượt biên qua Tây Phương tìm cuộc sống thoải mái cho mìnhva` giúp đở người thận. Trái lại nguyên nhân nào Thầy đi xuất gia vào đạo một cách đại hùng đại lực vậy?
Lúc đó Thầy mới tâm sự một cách chân thật về một quãng đời ấu thơ cho đến khi vượt biên đến xứ người và cuối cùng xuất gia vào đạo.
Thầy nói tiếp: Tôi nhập thất 3 năm, 3 tháng, 3 ngày, 3 giờ ở tu viện Phật giáo Tây Tạng bên Pháp. Mãn kỳ nhập thất tôi đi khắp nơi để thuyết giảng giáo lý mà tâm tôi lại chứng ngộ trong khoảng thời gian mật thất. Tôi thưa: Về tình bạn, Thầy may mắn gặp các vị đạo sư chỉ dạy những gì trong mật thất mong Thầy thương những kẻ còn u ám mê mờ, xin Thầy dạy cho. Hoặc sau nầy có tài liệu nào hay về đạo xin thầy gởi cho, để chúng con tham khảo học với. Thầy gật đầu và nói trong mật thất tôi đặng truyền dạy chú Đại Bi và chú OM MA NI PAD MÉ HUM bằng cả tâm lực, và luyện một số động tác Yoga để trợ sức khỏe. Thầy chỉ dạy tôi bắt ấn “Tứ Đại Ngũ Châu” khi trì chú và các phương pháp đặc biệt để mở các Sara. Tôi ghi nhớ bên tai nhưng đầu óc không quan tâm lắm, có ý coi thường câu thần chú đó. Thầy ở lại Việt Nam vài tháng. Cái hạng của Thầy không bút mực nào tả hết. Càng gần Thầy mới thấy kính phục, một hạnh Bồ Tát thể hiện thật sự, chớ không đần môi chót lưỡi. Thầy in mấy trăm triệu tiền kinh sách, dẫn đoàn đi khắp nơi để cúng dường. Những chùa xa xôi hẻo lánh cách lộ 1,2,3 cây số, mặt trời nóng chan chan hoặc mưa dầm dề, một mình Thầy tay xách nách mang đi đến đó để cúng dường kinh sách và tiền (khi ấy chúng tôi trong đoàn không ai chịu xuống đi với Thầy, vì nắng mưa, mệt). Một hai tiếng đồng hồ sau Thầy mới lội bộ ra, nhìn Thầy nét mặt hoan hỉ lạ thường. Thầy cười bảo: Kinh sách là giáo pháp Phật, phải ban truyền khắp nơi để bá tánh hưởng chụng. Đi đến bất cứ chùa nào nghèo thiếu thôn gạo ăn, chùa nào thiếu nước uống, cần khoan giếng, nơi nọ cần hồ chứa nước, hoặc chùa bị dột nát, Thầy đều hổ trợ đúng nhu cầu. Thầy đều nhiệt tâm giúp đở đồng bào nghèo khổ đói rách, có bao nhiêu trong túi móc ra cho, có khi năm bảy chục ngàn có lúc cả trăm ngàn. Khắp nơi nhờ Thầy thuyết pháp. Thầy giảng giáo pháp như tằm nhả tợ. Mọi người nghe xong đều giác ngộ, Thầy cho kinh sách xem đó mà gắng tu.
Tôi nghĩ: Vị sư nầy đã đi đúng hạnh từ bi hỉ xã, đạo lực rất thâm hậu. Mình phải bắt chước tu thôi. Nói thế chớ công việc chùa bận rộn. Rồi Thầy lại về Pháp.
Còn hai tháng rưỡi là Tết Quí Dậu 1993, bỗng mắt tôi bị đau. Tôi vội vàng đi khám phòng mạch tư Bác Sĩ Kính chuyên khoa về mắt ở dốc cầu Kiêu. Bác sĩ cho uống thuốc và nhỏ, nhưng mắt tôi càng ngày càng nặng them, nhức nhối lắm, một chút ánh sang cũng không chịu nổi. Dù Bác Sĩ khám đi khám lạinhie^`u lần, thay đổi thuốc luôn cũng không kết quả. Cuối cùng Bác Sĩ bảo tôi nhiễm si vi trùng rất khó chữa. Việt Nam không có đủ phương tiện, phải đi nước ngoài mới có điều kiện chữa khỏi. Lời tuyên bố của Bác Sĩ làm tôi rụng rời muốn xỉu. Tôi ra về với tâm trạng chán nản, đau khổ, tuyệt vong. Hỡi ơi! Nghiệp báo gì mà nặng nề thế! Nỗi đau đớn này không có bút mực tả hết. Tôi đã khóc rất nhiều, thầm nghĩ tuổi trẻ có làm gì nên tội: 17 tuổi xanh, một nữ sinh Gia Long yêu kiều duyên dáng, đã cắt bỏ mái tóc xanh, trở thành Ni Cô trẻ tại chùa từ năm 1963 có tạo điều gì thất đức với ai đâu? Nghiệp chướng gì mà con trả nặng quá, Phật ơi cứu con!!! Trong một thoáng kém suy nghĩ tôi định tìm cái chết, bèn bảo đệ tử mua cho được một vỹ thuốc ngủ, vì sư cô không ngủ đăng. Đệ tử thấy vậy cũng mua. Buổi sang tôi cầm vĩ thuốc là đã có quyết định rồi. Thì biểu chiều tôi nhận đặng một tài liệu của thầy Phật Đạo từ Pháp gởi qua. Đệ tử mở ra đọc cho tôi nghẹ. Đó là bài giảng về thần lực mầu nhiệm của chú Đại Bi và chú OM MA NI PAD MÉ HUM do đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng tại Pháp; dịch qua tiếng Việt ngữ do Phật tử Phạm Công Thiện. Nghe xong tôi bừng tỉnh nghĩ rằng tạo sao? Tại sao mình không trì chú? Nhờ oai thần của mật chú mà Đức Quán Thế Âm cứu mình. Tôi quyết tâm trì chú, nhờ thần chú giải nghiêp. Thế rồi tôi mò đốt 3 cây hương trong bong tối của tịnh thất, đến bàn thờ tổ quỳ tha thiết cầu xin Đức Quán Thế Âm chứng minh con con trì chú Đại Bi và chú OM MA NI PAD MÉ HUM để giải nghiệp báo than bệnh hoạn của con. Sau lời nguyện tôi ngồi xếp bằng tay kiết ấn “Tứ Đại Ngũ Châu” mà thầy Phập Đạo dạy. Lạ lùng thay, tay vừa bắt ấn xong, tay ấn tự nhiên rung rẩy, rồi toàn thân tôi cũng rung lên. Tôi sợ khiếp quá, bộ mình phạm thượng điều chi đây nên có hiện tượng kỳ lạ nầy? Hôm trước Thầy cũng dạy mình bắt ấn đâu thấy sao? Tôi liền giựt tay ra cũng không ra đặng. Định tâm, suy nghĩ, hay là đắt ấn, Phật chứng cho mình rồi? Qua 5 phút từ từ độ rung không còn nữa. Tôi bắt đầu đem hết tâm trí ra trì 108 biến chú OM MA NI PAD MÉ HUM và 21 biến Đại Bi thần chú. Xong quỳ vang vái Đức Quán Thế Âm xin nước cúng Phật, một ly uống, một ly rửa mặt và nhỏ vô mắt. Sáng mai mở mắt ra thấy bớt nhức. Ngày tôi trì chú 4 thời: 8 giờ sáng, 2 giờ chiều, 7 giờ tối, 12 giờ đêm. Làm y như trên qua ngày thứ nhì bắt ấn không còn run, mắt không còn nhức. Ngày thứ ba thấy dễ chịu trong mắt. Ngày thứ tư thấy rỏ trong bóng tối. Ôi mầu nhiệm vô cùng cực, tôi càng nhập tâm trì chú hơn. Ngày thứ năm, ánh sang lọt qua khe hở nhìn cũng thấy dễ chịu, nhìn ánh dầu nhỏ cũng không thấy lòa mắt. Qua ngày thứ sáu, tôi hé cửa nhìn ra bầu trời, thấy đôi mắt dễ chịu. Ngày thứ bảy sau khi tôi trì chú xong, tôi mở cửa ra sân nhìn tất cả cảnh vật chùa. Ôi! Quá sung sướng! Nỗi vui mừng này không có ngôn từ nào để diễn tả. Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu mạng cứu bệnh con rồi!!! Oai thần lực của thần chú vô cùng mầu nhiệm linh ứng. Quý Thầy, Sư Cô cùng Phật tử vào thăm ai cũng kinh ngạc trước sự hết bệnh của tôi một cách thần diêu. Đôi mắt tôi tìm lại ánh sáng: Vị ân nhân trợ giúp là Thầy Phật Đạo. Đức Quán Âm chuyển sao mà thầy gởi tài liệu đúng thời, đúng lúc khi tôi hoàn toàn tuyệt vọng. Mong ước sau tôi có đôi cánh bay bổng qua trời Âu đãnh lễ tạ ơn Thầy, cùng chia sẻ nổi vui mừng khôn xiết của kẻ chết đi đặng sống lại. Đó là một chuyện mầu nhiệm linh ứng về thần chú giải đặng nghiệp chướng: TÔI HOÀN TOÀN HẾT BỆNH.
—————–
THẦN CHÚ CỘNG HƯỞNG PHƯỚC BÁU CHƯ PHẬT TÁI THIẾT TRÙNG TU CHÂU AN TỰ
Câu chuyện thứ 2, tôi xin kể tiếp cho quý Phật tử rõ, linh ứng mầu nhiệm khi trì chú Đại Bi và chú OM MA NI PAD MÉ HUM để xin phước báu hữu lậu, tái thiết trùng tu Tổ Đình Châu An. Tôi xin nói sơ về nguồn gốc Tổ Đình Châu An do Đức Cao Minh Thiền Sư sáng lập, nối tiếp nhị tổ Hồng Liên Thiền Sư, kế tiếp tam tổ Nhựt Viên Thiền Sư. Hiện tại tôi đặng truyền thừa trụ xứ. Chân An tự trước ở núi Kỳ Vân Long Hải. Khi chiến tranh Pháp bắt buộc xuống núi, Chùa đặng dọn về Gia Định xóm gà. Một căn nhà ngói ba gian, hai mái làm chánh điện và chỗ ở, gần 80 năm thời gian năm tháng mưa nắng đã làm hư hoại. Ngôi Tam Bảo đã xuống cấp trầm trọng, cột kèo, rui, mè mối ăn hết, mái chùa oằn xuống mưa dột nhiều nơi. Đến nổi Ủy Ban Nhân Dân Phường 1, Quận Gò Vấp khuyến cáo chúng tôi : khi mưa to gió lớn không nên ở trong này, phải ra ngoài không khéo nó sập. Nhưng có chỗ nào để ở đâu! Chùa làm phòng thuốc Nam, châm cứu từ năm 1975 đến năm 1990, làm từ thiện 15 năm sống bằng lon gạo bó rau miếng đậu hủ của những thân chủ đền ơn!!! Đầu năm Quí Dậu 1993, tôi bắt đầu đêm đêm tập trung tinh thần vào việc trì chú Đại Bi, chí thành chí nguyện, tha thiết cầu xin Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ban phước, chuyển cho chùa gặp đại quý nhân hằng sản, hằng tâm giúp đở đồng ngân để tái thiết Tam Bảo.
Cuối năm ngày 28 tháng Chạp năm Quí Dậu, lúc 3 giờ chiều tôi tiếp 1 cô gái Phật tử xa lạ từ Pháp trở về. Cô ấy thưa: Sư cô ơi, con về đây với một nhiệm vụ thiêng liêng giao phó. Tôi ngạc nhiên hỏi: Nhiệm vụ thiên liêng là gì? Phật tử đáp: Bạch Sư Cô con xin kể. Con tên Phan Thị Hạnh hiện ngụ tại số 59, Pasteurrue, 91330 Yerres. Con rất thích được đi nghe thuyết pháp. Mỗi khi Đức Đạt Lai Lạt Ma qua Pháp giảngcon đều đi nghe. Có một lần con đang ngồi nghe giảng, tự nhiên con nhập đinh. Con cảm nhận một luồng ân điển tỏa khắp người; con choàng tỉnh mở mắt ra thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma đang đứng trước con xoa đầu thọ ký. Con vội quỳ lên đãnh lễ. Ngài chú nguyện và ban lời với nụ cười hiền diệu. Ngày ra về, các vị xúm lại chúc lành con! Từ đó, con thích sự vắng lặng thanh tịnh để tâm con được an lành, mọi việc đời tâm con không còn tha thiết nghĩ. Vào đêm 18 tháng Chạp, lúc 12 giờ đêmcon vừa tọa thiền xong nằm xuống nghĩ. Trong cơn nữa tỉnh nữa mê con thấy Đức Quán Thế Âm đi trên một vần mây sáng lòa, đến nơi đầu giường kêu con theo ngài cấp tốc về Việt Nam hổ trợ sự trùng tu tái thiết chùa Châu An.
Cuối năm ngày 28 tháng Chạp năm Quí Dậu, lúc 3 giờ chiều tôi tiếp một cô gái xa lạ từ Pháp trở về. Cô ấy thưa: Sư Cô ơi, con về đây với một nhiệm vụ thiêng liêng giao phó. Tôi ngạc nhiên hỏi: nhiệm vụ thiêng liêng gì? Phật tử đáp: Bạch Sư Cô con xin kể. Con tên Phan Thị Hạnh hiên ngụ tại số 59 Pasteurrue, 91330 Yerres. Con rất thích đi nghe thuyết pháp. Mỗi khi Đức Đạt Lai Lạt Ma qua Pháp giảng con đều đi nghe. Có một lần con đang ngồi nghe giảng, tự nhiên con nhập đinh. Con cảm nhận một luồn ân điển tỏa khắp người; con choàng tỉnh mở mắt ra thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma đang đứng trước con xoa đầu thọ ký. Con vội quỳ lên đãnh lễ. Ngài chu nguyện và ban lời với nụ cười hiền dịu. ngày ra về, các vị xúm lại chúc lành con! Từ đó, con thích sự vắng lặng thanh tịnh để tâm con được an lành, mọi việc đời tâm con không còn tha thiết nghĩ. Vào đêm 18 tháng Chạp, lúc 12 giờ đêm con vừa tọa thiền xong nằm xuống nghĩ. Trong cơn nữa tỉnh nữa mê con thấy Đức Quán Thế Âm đi trên một vầng mây sáng lòa, đến nơi đầu giường kêu con theo Ngài cấp tốc về Việt Nam hổ trợ sự trùng tu tái thiết chùa Châu An. Con đứng trên đám mây nhỏ phía sau Ngài cùng bay trên không trung vượt qua bao sông biển núi non trùng trùng điệp điệp. Vào đất Việt Nam từ từ hạ xuống tại chùa Châu An, con cùng với Bồ Tát ngồi tiếp chuyện với Sư Cô, tại bộ ghế nầy. Ngài chỉ cho con những chỗ hư hoại xuống cấp trầm trọng của ngôi chùa. Thế rồi con choàng tỉnh dậy và nghĩ đó là giấc mộng. Ngày mai cũng thế! Vừa tu xong nằm xuống thì thấy y như hôm qua. Rồi đêm thứ ba giấc mộng diễn ra y như đêm trước. Con suy nghĩ Đức Quán Thế Âm báo mình phải về Việt Nam tìm đến chùa Châu An để hổ trợ trùng tu. Sáng con kể lại giấc mộng 3 đêm liền cho chồng con nghe. Chồng con bảo: Cận Tết rồi, hôm nay 21 làm sao kịp thủ tục hộ chiếu và vé máy bay. Con trả lời: Nếu Phật gọi em thì Phật lo cho em! Con suy nghĩ cứ tận nhân lực tri thiên mạng, liền lái xe ra tòa Đại Sứ, xin gặp Ngài Đại Sứ và trình giấc mộng ba đêm liên tục như thế mong Ngài giúp đỡ phương tiện. Ngài Đại Sứ cười và nói: Đây cũng là một chuyện lạ, nếu có điều kiện sẵn sàng giúp đở, còn hứa thì Ngài không hứa, vì cận Tết đồng bào về nước quá đông không còn một ghế trống trên máy bay. Con cảm ơn Ngài Đại Sứ ra về và xin gởi số điện thoại lại. Sư Cô có thể nghĩ rằng sự mầu nhiệm như thế nào không? Chưa đầy một tuần sau con nhận điện thoại từ Tòa Đại Sứ báo cho con hay có hai hộ chiếu, hai vé may bay, ông bà có thể về luôn không? (Có một gia đình giờ chót không về nước, nên trả hộ chiếu vé may bay). Vợ chồng con rung luôn, vôi vàng thu xếp hành lý, ngày hôm sau ra phi trường trở về Viêt Nam.
Đúng 5 giờ chiều ngày 27/12 AL, vợ chồng con đặt chân xuống phi trường Tân Sơn Nhất, con tạm ngụ tại nhà bạn. Tối đêm đó con không ngũ đặng cứ lăn lộn mãi, bên tai cứ nghe tiếng thúc giục phải tìm chùa cho nhanh! Đúng 5 giờ chiều ngày 27/12 AL, vợ chồng con đặt chân xuống phi trường Tân Sơn Nhất, con tạm ngụ tại nhà bạn. Tối đêm đó con không ngũ đặng cứ lăn lộn mãi, bên tai cứ nghe tiếng thúc giục phải tìm chùa cho nhanh! Sáng ra con nói để đi tìm chùa Châu An. Chồng con bảo: Mới qua ngồi phi cơ 18 tiếng bộ không mệt sao? Nghĩ 1, 2 hôm rồi đi tìm. Con bảo: Không đặng, nếu không tìm ra chùa thì không đêm nào ngũ đăng. Hãy để em đi tìm chùa cho xong trách nhiệm Phật giao phó! Con nhờ người cháu chở đi, hỏi thăm từ từ các chùa và cuối cùng con đã tìm thấy chùa Chân An đây rồi. Con đưng lặng người bàng hoàng sửng sốt, đúng là cảnh chùa nầy mà ba đêm trong mộng con đã thấy: Từ tượng đài Quán Âm; Tháp Tổ; những gốc nhãn, xoài to lớn; kìa chánh điện mái ngói đã hư; trong chùa kèo cột rui mè bị mối ăn hết; trên trần nhà những tấm la phong mục nát rớt xuống. Phật đã chỉ cho con xem sự hư hoại xuống cấp này, con cũng đặng hầu chuyện với Sư Cô ba đêm liền. Nên khi sư cô ra mở cổng, nhìn gương mặt và dáng đi Sư Cô con đã nhận ra ngay.Kể luôn cả pháp danh của sư cô con cũng biết.
Trước sự việc mà cô Phật tử kể tôi hết sức kinh ngạc, tự nghĩ sự linh ứng mầu nhiệm của thần chú Đại Bi và chú OM MA NI PAD MÉ HUM có kết quả một cách thần bí! Cô Phật tử nói: Hôm nay con về Việt Nam với một nhiệm vụ thiêng liêng giao phó: Đó là ủng hộ cho Sư Cô trùng tu chùa Châu An, trước mắt con xin cúng dường Mười triệu đồng Việt Nam. Chừng nào Sư Cô khởi công làm, con có con xin ủng hộ tiếp. Tôi nói trước sự việc quá đột ngột, Sư Cô chưa có dự định trùng tu sớm vì kinh phí nhà chùa còn quá hạn hẹp. Cô Phật tử nói: Chừng nào Sư cô trùng tu thì tùy; nhiệm vụ của con từ Pháp về đây tìm đặng chùa rất là kho khăn. Xin nhận sự đóng góp, cúng dường trùng tu tam bảo, thực thi điều trong mộng để phần tâm linh con đặng nhẹ nhàng, vì ngày mùng 3 Tết con trở qua Pháp. Tôi nhận số tiền, tiễn đưa cô ấy về và trao đổi địa chỉ cùng nhau. Đầu óc tôi bắt đầu lo nghĩ, nửa mừng nửa sợ, nửa nghi nửa ngại.
Đêm cúng giao thừa xong, tôi quỳ trên chánh điện thành tâm tha thiết cầu xin Đức Quán Thế Âm chỉ dạy: Với số tiền chùa có đặng Bốn Chục Triệu Đồng Việt Nam, vậy có thể khởi công tái thiết trùng tu Tam Bảo không?
Những ngày tiếp theo suy nghĩ quá nhiều nên thằng kinh căng thẳng, áp huyết lên cao tôi đã bệnh.
“Bạch Thầy có khách gặp” – Thị giả thưa.
“Con mời Sư Cô Đăng tiếp, Thầy mệt lắm!”
“Bà ấy xin gặp Thầy thôi. Bà ấy đang ngồi trên chánh Điện!”
Tôi cố gắng lên chánh điện tiếp khách. Đó là ngày mồng 6 Tết. Một bà Phật tử đang quỳ lạy Phật, ngó lên thấy tôi buông tiếng nói: “ Sư nữ lại đây cho ta dạy việc”.
Tôi thấy lạ, vì kẻ dùng danh từ Sư nữ nói ra như ra lệnh. Tôi bèn quỳ xuống.
Bà ấy nói: “ Sư nữ ơi! Chuyện không có gì phải lo lắng quá mà mang bệnh. Hãy bình tâm định trí lại. Đây là cơ Phật chuyển, ban thưởng cho Tổ Đình Châu An, xoay chuyển các đệ tử sẽ về rất đông; kẻ của người công đứng ra gánh vác sự trùng tu Tam Bảo. Sư nữ hãy bảo trọng sức khỏe.” Tôi vội chấp tay thưa: Con xin y giáo phụng hành. Xin bề trên hổ trợ cho con xin giấy phép xây dựng đặng dễ dàng.
“Sư nữ yên trí, đệ tử ta lo hết, hãy bình tâm, bình tâm.” Rồi bà ta thở dài (thăng), đứng dậy cúi đầu đãnh lễ Sư Cô, kiếu ra về cầm ở lại không đặng.
Tôi bắt đầu xin giấy phép sửa chữa. Hỏi thăm các chùa đang làm. Quý Thầy Cô cho hay gay lắm. Tốn kém dữ lắm, một hai năm mới có giấy phép.
Tôi cứ nghĩ tận nhân lực tri thiên mạng. Sáng 16 tháng Giêng 1994, tôi vào sở Xây Dựng Thành Phố để hỏi mọi thủ tục, giấy tờ cần thiết khi nộp đơn. Cô Ngân nhân viên Sở ngẫn đầu lên nhìn tôi mà nói: Sư Cô về chùa đi, một chút con vào chùa hướng dẫn Sư Cộ Tôi về chùa, nửa tiếng sau cô dẫn hai người bạn vào chùa lễ Phật.
Trong lúc các cô lễ Phật, tôi đứng đánh chuông thầm vái Đức Quán Thế Âm chuyển những người này giúp đở hồ sơ giấy tờ. Lễ Phật xong xuống phòng tôi đem giấy tờ cái gì nhà chùa có cho cô Ngân xem. Xem xong, cô bảo giấy tờ hợp lệ, nhưng còn thiếu một số giấy tờ, để tụi con giúp cho đủ thủ tục. Cô bảo hai người bạn: Nga vẽ họa đồ vị trí cũ, Ngọc hợp đồng đo đạt đất đai, còn chị nhờ các anh vẽ laplan, mống, cột và chứng các giấy tờ cần thiết. Tôi nói các cô cố gắng giúp đỡ, ơn nầy nhà chùa không quên, sẽ có bồi dưỡng xứng đáng. Các em vội nói: Sư Cô cho tụi con kiếm chút công quả, chúng con hổ trợ nhà chùa vô điền kiện.
Sau khi đầy đủ giấy tờ để nộp đơn, hồ sơ còn phải qua 9 cơ quan rất gay go khó khăn, có những nơi hồ sơ phải nằm lại vài tháng. Nhất là khâu bảo vệ chính tri. Với sự nhất trí của Phật tử, tôi nhờ một cán bộ Mặt Trận, quen biết nhiều để nộp hồ sơ, lo giấy phép xong sẽ bồi dưỡng 10 Triệu. Nhưng hồ sơ bị trả lại khi cậu ta nộp! (???) Thấy vậy tôi lên Chánh Điện cầu nguyện Đức Quán Thế Âm gia hộ cho con đi nộp hồ sơ chùa, gặp đặng quới nhơn giúp đở. Thì y như lời cầu nguyện, đi tới cơ quan nào cũng đều gặp nhân viên vui vẻ cởi mở giải quyết hồ sơ nhanh chóng. Phật đã chuyển người có tâm đạo giúp đỡ để đỡ tốn 10 Triệu phi lý. Song song với việc lo hồ sơ giấy phép, tôi nhận đặng tiền của Phật tử từ xa gần cúng dường hổ trợ trùng tu Tam Bảo.
Vài thángsau nhà chùa có giấy phép, tôi chọn ngày 11-8-1994 khởi công xây phần dưới. Công ty xây dựng Hoàn Mỹ đặng chọn thi công với giá Tám Chục Triệu đồng tiền công. Phần vật tư thì nhà Chùa mua. Trước ngày Công Ty Hoàn Mỹ thi công, tôi tiếp vị Giám Đốc Công Ty. Cậu còn rất trẻ, mới 37 tuổi, gương mặt phúc hậu vui vẽ. Sau một vòng tham quan chùa, trở về Công Ty, cậu chỉ thị ký nhận Năm Chục Triệu đồng, còn cúng lại chùa Ba Chục Triệu đồng để mua vật tư (vì thấy chùa nghèo). Cậu còn ủng hộ hoàn toàn bộ ván coffrage, giàn chống, dụng cụ xây dựng linh tinh (đỡ tốn Sáu Mươi Lăm Triệu đồng về khâu đó).
Còn vật tư Phật tử chạy mua: Xi măng đổ móng cột, sử dụng xi măng Trung Quốc mỗi bao tiết kiệm đặng mười ngàn đồng. Gạch, cát, đá, sắt: đặng Phật tử cho mượn bãi đổ nên mua từ công ty Biên Hòa, chở bằng phương tiện trọng tải lớn, mỗi thứ rẻ đi năm, bảy triệu đồng.
Đại chúng cùng Phật tử phát tâm nhất trí lao động ngày đêm ròng rã một tuần: đập phá dỡ chùa, dời xà bần vào một vị trí, trả mặt bằng để bên thi công đào móng (tiết kiệm khâu đó đặng mười triệu đồng).
Nhiều vị Kiến Trúc Sư, Kỹ Sư xây dựng quen biết với nhau, nghe làm chùa rủ nhau đến, bàn bạc góp ý làm cho bền, chắc, đẹp mà ít hao tốn.
Sự mầu nhiệm linh ứng không thể luận bàn, khắp nơi khi xây dựng bị phát sinh hao tốn lắm. Vậy mà chùa Châu An phát sinh chiết giảm tiết kiệm đặng một số kinh phí lớn.
Cuối năm 1994 hoàn tất phần dưới. Tháng 09-1995 xây tiếp phần trên lầu (Chánh Điện). Đầu năm 1996 xây tiếp hai dãy lầu gồm 14 phòng và dãy nhà bếp. Tổng kinh phí 877,585,000 đồng. Ngày 19-2-1997 vía Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cũng là ngày Châu An Tự tưng bừng lễ lạc thành. Nhơn thiên chung hưởng phước lành.
Mừng ngày an vị lạc thành Châu An và khi khởi công trùng tu chùa, tôi có báo tin cho thầy Phật Đạo (Thầy là người chỉ dạy bắt ấn “Tứ Đại Ngũ Châu” khi trì chú Đại Bi và chú Om MA NI PAD MÉ HUM bằng tất cả tâm lực). Thầy trả lời đó là nhiệm vụ các vị cứ làm. Thầy không ủng hộ viên gạch nào cả nhưng Thầy đã trao cho tôi chìa khóa, tự mỡ ra mà lấy phước báu chư Phật sử dung. Ghê chưa quí Phật tử. Tôi đang nhập thất, thấy Đức Quán Thế Âm hiện rạ Tôi quỳ đãnh lễ Bồ Tát. Từ đó tâm tôi thôi thúc bảo phải viết lên cho Phật tử biết sự nhiệm mầu linh ứng mà phát tâm trì tụng Đại Bi Thần Chú và chú OM MA NI PAD MÉ HUM để cộng hưởng phước báu chư Phật.
Thiền thất, ngày 15-04 năm Đinh Sửu
Phật lịch-2541- viết xong
Ni Sư Thích Nữ Lệ Phát
Trụ trì CHÂU AN TỰ