Phật pháp nhiệm mầu được hiểu như thế nào?
Khi nói đến Phật pháp nhiệm mầu, chúng ta hiểu như thế nào? Thông thường khi chúng ta gặp khổ thì lạy Phật khấn vái: “Đức Phật phù hộ cho con được hết khổ, được mọi sự như ý”. Nếu lời khấn vái ấy được như ý, ta cho là Phật pháp nhiệm mầu. Hiểu Phật pháp nhiệm mầu như thế là không đúng. Tại vì cầu xin thành tựu thì ta cho Phật pháp nhiệm mầu. Giả sử không thành tựu thì sao? Chúng ta cho rằng Phật pháp không nhiệm mầu. Cả hai trường hợp nhiệm mầu và không nhiệm mầu trên đều là hiểu sai lệch.
Trước khi nói về sự nhiệm mầu của Phật pháp, chúng ta cũng nên nhắc lại đạo Phật là đạo giác ngộ. Phương tiện để đi đến sự giác ngộ là trí tuệ. Chúng ta thuộc bài nói dễ dàng, nhưng đó mới chỉ là ngôn ngữ, chưa thấy được tính nhiệm mầu của Phật pháp đâu. Phải dùng trí tuệ quán chiếu sâu sắc, thật sự giác ngộ và sống với nền tảng giác ngộ ấy mới thấy được tính nhiệm mầu của Phật pháp. Người có trí tuệ không hẳn là người lịch lãm, nhưng bên trong rất sáng suốt, tỉnh táo, luôn kiểm soát được ba nghiệp thân khẩu ý. Ngược lại người hiểu biết lịch lãm nhưng bất giác ai làm tổn thương, nổi sân la lên thì không còn lịch lãm, không còn bình tĩnh, ba nghiệp đều bất thiện. Có người còn bào chữa nói: “Tôi sân đúng, tại vì người kia sai nên tôi phải phản ứng”. Khi chúng ta não loạn vì bất cứ nguyên nhân nào cũng không thể gọi là tỉnh táo sáng suốt được. Để tham sân si chi phối thì lúc đó là tối, chứ không thể sáng.
Đức Phật dạy người tu phải điều phục tâm. Đứng trước một sự việc, một hoàn cảnh, có thể đúng, có thể sai nhưng ta phải ứng xử bằng cặp mắt trí tuệ, như vậy mới giải quyết vấn đề tốt đẹp, không làm khổ mình khổ người. Ngược lại đứng trước sự việc, hoàn cảnh dù đúng hay sai mà ta không bình tĩnh, bị chi phối bởi tham lam, sân hận và si mê thì không giải quyết được gì cả, nếu không muốn nói sẽ đổ vỡ hay thất bại. Cho nên người Phật tử phải sử dụng cho được trí tuệ của mình.
Có hai loại trí tuệ cơ bản: Một, trí tuệ hữu sư. Trí này do học hỏi từ thầy bạn, thiện tri thức mà khai mở. Hai, trí tuệ vô sư. Trí tuệ này có sẵn nơi chúng ta. Thường mình không nhận được trí tuệ vô sư, nên giai đoạn đầu phải do sự chỉ dẫn của Phật, Bồ-tát hay bậc thiện hữu tri thức, chúng ta xoay lại mình, lắng tâm yên định, bỗng nhận lại trí tuệ vốn sẵn có của mình. Khi nhận được trí tuệ này, chúng ta nhìn thấy cuộc đời đúng như thật, không còn lầm lẫn nữa nên cũng không còn ưu não trước mọi thành bại, được mất, hơn thua của thế gian. Bấy giờ ta sẽ thấy được sự nhiệm mầu của Phật pháp.
Khi mê chúng ta hành xử như một kẻ điên loạn, không cần biết đến hậu quả như thế nào. Lúc tỉnh nghiệm lại thấy mình khổ quá hóa dại. Thành ra nhờ đến với Phật pháp, chúng ta học Phật, thấm nhuần chánh pháp, chuyển mê sang ngộ. Chuyển từ suy nghĩ sai lầm, hành động sai lầm, ngôn ngữ sai lầm sang suy nghĩ đúng đắn, hành động đúng đắn, ngôn ngữ đúng đắn. Có người chuyển nhanh, có người chuyển chậm, tùy duyên tùy căn cơ sai biệt. Nhưng tất cả đều được lợi ích, đều thăng tiến trong đời sống tâm linh.
Nếu không gặp Phật pháp chúng ta sẽ có những hành động mê muội dẫn đến hậu quả thật đáng tiếc. Bây giờ nhớ lại, nhiều Phật tử đã nói nếu không gặp Phật pháp, không biết cuộc đời con sẽ ra sao? Quí vị so sánh với những ngày trước khi gặp Phật pháp, thấy giá trị tu tập thật là quý giá. Như vậy có thể nói Phật pháp nhiệm mầu rồi. Nhiều người buồn khổ quá muốn tự vận chết cho rồi, nếu lúc đó họ chết đi thì chưa chắc sự việc đã tốt hơn, mà trước tiên là chết trong uất ức tăm tối, như vậy đương sự sẽ chịu khổ, vì tái sanh trong tâm niệm, trong nghiệp thức si mê phiền muộn.
Ngược lại, khi gặp nghịch duyên, chúng ta dùng sức mạnh tinh thần, nếu có thêm sự hỗ trợ của những người xung quanh càng quý, ta xoay chuyển hoàn cảnh, xoay chuyển vấn đề trong một cái tâm định tĩnh. Dùng trí tuệ quán chiếu thấy mọi việc rồi cũng qua đi, không có gì tồn tại mãi, sầu muộn vương vấn làm chi cho phí khí lực, càng không đúng với sự thật. Đó là người trưởng thành về mặt tâm linh. Những khúc quanh trong đời đôi khi chúng ta nghĩ là ngõ cụt, bỗng nhiên đằng sau lại mở ra một chân trời sáng. Có những cú sốc tưởng chừng nó đã tiêu diệt mình, nhưng không ngờ chính nó lại đưa ta từ nơi vực sâu đến vùng trời thật cao rộng.
Nhờ đâu ta có được những kết quả diệu kỳ như thế? Nhờ Phật pháp. Cũng con người, cũng sự nghiệp, cũng hoàn cảnh như vậy, hồi trước mình cho là làm phiền mình, bây giờ mình thấy bình thường. Nhờ trí tuệ mở ra, ta không rơi vào trạng thái phiền não như trước nữa. Niềm tin nơi giáo pháp cần phải từ sự trải thân mà ra thì mới chân thật. Ít khi nào chúng ta nghe người khác nói mà tin một cách chắc chắn mạnh mẽ. Nhưng một khi chúng ta thể nghiệm được điều gì từ bản thân thì sẽ tin chắc, không nghi. Trong đạo Phật, đức tin quý nhất là tin mình có khả năng giác ngộ thành Phật. Đức tin này tùy theo sự tu tập của mỗi hành giả mà sâu cạn khác nhau.
Theo đó thì biết sự nhiệm mầu của Phật pháp tùy theo trình độ tu tập của chúng ta mà có nhiều cấp độ khác nhau. Chúng ta đừng nghĩ rằng sự nhiệm mầu của Phật pháp là thần thông, hay một thần lực bên ngoài gia bị cho mình. Dù có sự gia bị của Tam bảo, đó cũng chỉ mang tính hỗ trợ thôi. Như tấm gương, thể của nó là thường sáng, dụng của nó là hay chiếu. Khi bụi bám vào, ta thấy như gương bị mờ đi. Thật ra không phải thế. Tuy bị bụi bám, gương vẫn sáng nhưng không chiếu được. Bấy giờ chúng ta lấy khăn lau bụi thì gương sáng lên. Tánh gương tuy sáng nhưng nó không giữ tự tánh. Bụi bám vào, nó cũng không cản. Dùng khăn lau bụi, nó cũng không ngăn. Gương thường sáng nhưng không can thiệp gì đến bụi. Bụi bám thì bám, gương sáng vẫn sáng. Thấy sáng hay không là chuyện bên ngoài, gương không cần biết. Nó chỉ hay sáng một cách tự nhiên nguyên vẹn vậy thôi.
Thường sáng là tánh của gương, hay chiếu soi muôn vật là dụng của gương. Bụi bám là vô minh vọng tưởng bên trong và các trần cảnh bên ngoài. Khăn lau là Phật pháp. Chúng ta dùng phương tiện Phật pháp để dẹp sạch bụi bặm trần lao. Cả hai thứ này đều là pháp vô thường sanh diệt. Tuy nhiên lau giỏi thì gương sạch. Gương sạch thì ánh sáng chiếu soi sáng tỏ. Lau không giỏi thì gương dơ. Gương dơ thì ánh sáng bị bụi làm mờ, khiến không sáng tỏ. Chuyện sạch hay dơ là chuyện của bụi và hành động lau, chớ gương vẫn như vậy. Vẫn như vậy mà không như vậy. Vẫn như vậy là thể của gương vẫn như vậy. Không như vậy là dụng của gương không như vậy. Cho nên trên bước đường công phu cần phải lau chùi. Chỉ có chỗ cứu cánh mới hoàn toàn không một vật.
Sự tu tập của chúng ta cũng thế. Dù tâm chân thật luôn luôn sẵn vậy, luôn luôn chiếu soi, nhưng nếu mình không nỗ lực công phu, không siêng năng lau chùi bụi phiền não vọng tưởng thì chẳng thể dùng được ánh sáng của gương. Khăn lau thì người khác có thể đưa cho, nhưng việc lau chính mình phải làm. Thiện hữu tri thức, Phật pháp ví như khăn lau, là phương tiện hỗ trợ, việc tự thân thực tập giống như hành động lau, phải do chính chúng ta đảm đương lấy, không ai thế được.
Điều phục tâm vọng tưởng, chuyển hóa nghiệp giỏi chừng nào thì Phật pháp mầu nhiệm chừng đó. Chúng sanh do mê lầm chấp chặt vào thân tâm sanh diệt mà gây tạo nghiệp nhân bất thiện, chuốc quả khổ đau. Vì mê bản ngã, chấp bản ngã nên ai đụng đến bản ngã cũng không được, bằng mọi cách bảo vệ nó tới cùng. Phật nói đây chính là gốc của vô minh. Ví như có ai lỡ làm mình té, chúng ta sẽ nổi giận gây chuyện với người ấy hay muốn hất lại người ấy. Nhưng nếu do bất giác ta vấp cục đá té một cái, lúc đó sao không đánh vào cục đá, sao không gây với cục đá, mà lại đứng lên phủi liền? Tại vì mình nghĩ cục đá không có ý hại mình, do bất cẩn nên mình té. Té rồi mau mau đứng lên, sợ có ai nhìn thấy cười mình không có ý tứ. Bấy giờ tâm trạng của ta không phải giận dỗi mà là hổ thẹn, mắc cỡ. Bởi ta chịu tránh nhiệm về sự bất cẩn của mình, lỗi này thuộc về mình, nên không giận cục đá. Còn khi người khác phạm phải là mình giận liền vì nghĩ người ta có ý hại mình. Cái đau bị té của hai trường hợp như nhau, đôi khi té vì vấp đá đau hơn, nhưng do tác ý hay không tác ý mà cảm thọ hoàn toàn khác nhau. Rõ ràng đau chưa hẳn là khổ, mà khổ là do tâm vọng tưởng tạo ra.
Người ta có quyền nói bất cứ điều gì, nhưng chúng ta có quyền giận hay không giận. Khi giận là do ta bất giác. Nếu tỉnh giác ta luôn luôn xoay về quán chiếu thì sẽ không bị ngoại duyên bên ngoài và vọng tưởng bên trong lừa mình. Khi ta phát hiện mình bất giác thì sẽ không dám trách ai. Phát hiện được lỗi của mình, tự nhiên ta gói gọn sự việc, không bao giờ dám quậy cho lớn chuyện thêm. Chúng ta nổi sân là do chấp câu nói của người kia không đúng, (không đúng với ý mình, chớ chưa hẳn họ nói không đúng), chấp mình là số một. Mình phải đúng bởi vì bản ngã của mình số một, không ai có quyền làm thương tổn. Do chấp đúng như thế nên trở thành sai lầm.
Vì kiến chấp sai lầm mà chúng ta làm mờ đi tánh hay thấy hay nghe vốn thường tại, vô tư, vô tác ý. Tánh hay thấy, hay nghe nhà Phật gọi là công năng của chân tâm hiển thị qua mắt, qua tai. Tánh giác thường trực ấy luôn luôn biết, luôn luôn sáng tỏ, không phải đi tìm. Nó thường trực mà tại sao chúng ta bị cái không thường trực xen vào phá hoài? Tại bất giác. Vừa nghe một lời nói dễ thương hoặc một lời nói khiếm nhã là ta chạy theo ngay. Vì bận chạy theo lời nói ấy, mắc kẹt lời nói ấy, nên ta không thể nghe tiếp tục được nữa, tức là ta làm mờ mất tánh nghe rồi. Ta đánh mất khả năng nghe vì để bụi phiền não bám vào tâm.
Nhờ Phật pháp, ta dùng trí tuệ quán chiếu trở lại, biết lời nói kia không thật, mình đang nghe đây tức là đang có cái chân thật, tại sao lại bỏ cái thật chạy theo cái không thật, nên không thèm phiền não với những lời nói ấy nữa. Hết phiền não thì an ổn. Quả thật nhiệm mầu! Sự nhiệm mầu này do ta tu tập mà được, chớ không phải ai ban phát cho. Đó là dùng khăn lau bụi. Khi nghe chỉ biết hay nghe thôi. Nói lời gì cũng chỉ nghe, việc cần giải quyết thì giải quyết, việc không cần giải quyết thì thôi, không đem bỏ vào kho tàng thức làm chi. Như vậy tuy có bụi mà nó không bám vào gương được cho nên tánh sáng của gương vẫn hiển lộ.
Ai nói đúng nói sai chi không biết, mà ta phiền não là ta sai rồi. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta không làm việc, không quan tâm đến trách nhiệm bổn phận của mình. Ta vẫn làm việc, vẫn góp ý khi cần thiết, nhưng nhớ là đừng để tham sân si chỉ đạo, mà làm việc theo sự chỉ đạo của trí tuệ, của tình thương. Khi quý Phật tử thấy con cái phạm sai lầm, không nên nổi sân lên, rồi lấy quyền làm cha làm mẹ rầy la, bắt buộc chúng thế này thế nọ theo ý mình. Hãy ôn tồn kêu con lại, dùng tình yêu thương giải thích cho con hiểu làm như vậy là không tốt. Đưa ra những phương pháp tốt đẹp và dành cho chúng quyền tự do lựa chọn, có sự yểm trợ của cha mẹ cho những định hướng đúng đắn của con, nhất định con sẽ nghe lời cha mẹ.
Cha mẹ luôn là điểm tựa cho con, nhưng phải để chúng đứng trên đôi chân của chúng, đừng có gắn chân mình vào chân chúng. Làm như thế sẽ hư hết một lượt cả hai đôi chân. Quí vị có tôn trọng chúng, chúng mới tôn trọng lại quí vị. Nếu con tiếp tục sai lầm thì con sẽ chuốc đau khổ. Cũng đừng sợ, vì chính khổ đau lại là một bài học lớn, một giá trị không nhỏ giúp cho con thức tỉnh và có kinh nghiệm trên những bước hành trình tiếp theo. Quí vị làm nổi điều đó trong tinh thần tỉnh giác, đừng sân, đừng sợ hãi, đừng chấp con của mình phải tuyệt đối nghe lời mình, nhất định chúng sẽ nhận ra được tấm lòng của cha mẹ, nhận ra được sự cần thiết của cha mẹ. Và như thế dĩ nhiên chúng sẽ vâng lời quí vị.
Trong cuộc sống ai cũng lập kế sinh nhai. Khi làm việc thì tập trung vào việc làm, nhưng làm trong tinh thần tỉnh giác. Công việc tới đâu ứng xử tới đó. Mệt thì nghỉ thở một chút, đừng làm quá sức dễ sinh phiền não. Làm việc một cách tự nhiên, không ưu tư lo lắng, đem đến kết quả rất lớn. Tâm càng định tĩnh, công việc càng thành tựu. Định tĩnh nhưng vẫn có ước tính trong công việc, chứ không phải không. Nhà Phật gọi là chánh niệm trong công việc. Ví dụ khi quí vị lên một kế hoạch nào đó, cứ nghiệm về kế hoạch ấy thật chu đáo thì sẽ thực hiện được kế hoạch tốt. Không phải học Phật rồi, chúng ta cứ ngồi như cây khô, củi mục. Nên nhớ tánh giác hay khởi diệu dụng nhưng mà phải khởi đúng, không được khởi méo mó, đây gọi là diệu dụng. Ngược lại khởi không đúng, khởi méo mó gọi là vọng động.
Tánh giác không bao giờ bị nhiễm ô. Dù ta có tức tới đâu thì tức, chứ cái biết của mình không bao giờ tức. Cái biết đang biết ta tức hay không tức, trạng thái tâm đang vọng động hay thanh tịnh. Khi buồn phiền trong lòng chúng ta cảm thấy khó chịu, trạng thái ấy được cái biết nhận rõ ta đang khó chịu, chứ không phải cái biết khó chịu. Phật bảo nhận được như thế thì sẽ chấm dứt các thứ điên đảo, phiền não, chấm dứt luôn cả dòng sanh tử. Trong cuộc đời đau khổ có nhiều biến động, nhiều thay đổi nhưng ta hoàn toàn không biến động, không thay đổi, không nhiệm mầu là gì! Đó chính là tâm chân thật có sẵn nơi mỗi chúng ta. Tu là nhận ra và sống cho được với tâm chân thật này.
Hình ảnh người dân miền tây sống với lũ chứ không chống lại lũ, rất hay. Làm sao chống lại lũ cho nổi? Khi lũ dâng lên, ta đắp đê chặn lại, nhưng nếu nó dâng cao hơn, sức nước mạnh hơn thì sẽ phá vỡ cả đê. Sức chặn lại quá yếu so với sức tấn công của lũ, chỉ càng làm cho việc chống lũ thêm khó khăn lao nhọc mà không đạt được kết quả chi. Khi có hai thế lực chống nhau, dĩ nhiên có một thế lực mạnh và một thế lực yếu, cho nên phải có một bên thất bại. Bây giờ sống với lũ thì sao? Nó lên mình chèo thuyền lên, nó xuống mình chèo thuyền xuống. Chúng ta không chống nó nhưng sống trên nó, nên không mệt vì chống nhau mà cũng không bị nó vùi dập. Khó nhưng thực hiện được mới thấy phương châm “tùy duyên bất biến” của đạo Phật cực kỳ nhiệm mầu. Cho nên quí Phật tử ở trong cảnh nào thì tu trong cảnh ấy, đừng nghĩ vô chùa mới tu, ở nhà không tu. Ở nhà mà tu được là biết cách sống với lũ, sống trên lũ. Lũ lên mình lên, lũ xuống mình xuống nhưng mình không chết gọi là bất biến. Ngược lại lũ lên mình lên, lũ xuống mình chìm luôn gọi là biến rồi, không còn bất biến nữa.
Muốn sống được với cái chân thật, chúng ta phải biết cái gì thật cái gì giả. Giả thì bỏ, thật thì giữ lại. Âm thanh sắc tướng bên ngoài, vọng tưởng ức niệm bên trong, là giả. Tâm hay biết mà không phân biệt đối đãi là thật. Nhận và sống đúng theo lời Phật dạy, chúng ta sẽ chuyển cuộc đời đau khổ thành cuộc sống nhiệm mầu. Bằng cái nhìn trực giác, chúng ta luôn luôn thấy, luôn luôn nghe, luôn luôn biết, trôi chảy hồn nhiên, không tồn đọng, không níu kéo, không nắm bắt, cho nên không có phiền não khổ đau. Sống như vậy là chuyển hẳn cuộc đời, không phải chuyển một mình mình, mà chuyển luôn cho mọi người chung quanh. Sức sống ấy là sức sống mãnh liệt nhất, không sức sống nào bằng sức sống chân thật. Khi tâm tỉnh giác, tất cả mọi việc hiện ra tự nhiên, hết sức an lạc. Ngược lại, chúng ta khởi một niệm mê là cả con đường sanh tử hiện ra, tối tăm hiện ra. Chỉ cần dấy niệm so đo phân biệt là chúng ta cảm thấy cuộc đời bất công và đau khổ.
Có một câu chuyện đồng giao của nhà văn Võ Hồng như thế này. Bữa đó con trâu đi làm về, thấy con chó nằm trước cổng rào phe phẩy cái đuôi thật sướng, trong khi nó mệt gần chết. Nổi cáu, trâu nói:
– Nội nhà này, không có ai vô tích sự bằng mày, không có ai sướng bằng mày.
Nói xong nó bỏ đi. Con chó kêu lại:
– Anh hai trâu đứng lại, tui nói cho nghe. Này, cái tướng anh to nhưng mà cái trí anh nhỏ.
– Tao đang mệt, mày đừng có chọc tao.
– Không chọc, tui phân tích cho anh mở rộng tầm nhìn thôi. Anh biết một mà không biết hai. Anh thấy tui nằm đây, tưởng tui sướng hả. Nè, anh tuy làm nặng thật nhưng mà đúng giờ đúng giấc, sáng ra đồng chiều về. Còn tui thấy nằm lim dim vậy tưởng như khỏe nhưng mệt cầm hơi, đâu có ai biết. Suốt đêm thằng chủ nó bắt tui thức thấy mồ tui luôn. Lâu lâu tui lỡ ngủ quên một chút, ăn trộm vô nhà tui không hay để sủa, sáng ra nó chửi tui “tao nuôi mày để giữ nhà, chớ đâu phải để mày ngủ, tại sao ăn trộm vô mày không sủa?” Vậy chớ tại sao nó ngủ quên, nó không chửi nó. Suốt đêm tui thức thì giờ cũng phải cho tui ngủ chứ.
Chưa kể thằng chủ bất thường, có chuyện gì quạu, đi qua nó đá tui một cái, đi lại nó đá tui một cái, làm như tui là trái banh vậy. Nó không tôn trọng tui chút nào, mà tui đâu có nói được nó, cũng không dám cắn nó. Cắn nó thì nó bỏ đói tui chết luôn. Còn nữa, người thân nó đến tui sủa, nó chửi tui đồ ngu. Người nó thích tui không được quyền sủa. Bạn bè nó tới không sao, bạn bè tui tới nó suỵt đuổi đi, không đi nó ném đá lỗ đầu chảy máu. Anh không thông cảm cho tui mà còn nói tui sướng nhất cái nhà này hử! Hic. Tui buồn tui khổ biết bao nhiêu, mà đâu có nói được với ai, nên tui nằm đây chịu đựng. Anh tuy làm cực nhưng tối đến anh được nằm ngủ trong chuồng đàng hoàng. Nó cũng trân trọng anh, lấy cỏ cho anh ăn, anh nằm, vuốt ve anh. Thử ngẫm lại coi, ai sướng nhất cái nhà này?
Con trâu nghe nói cũng có lý, nên an ủi con chó:
– Ờ tao xin lỗi mày, tại vì tao cũng chưa nói chuyện với mày lần nào, tao không biết cái khó khăn của mày. Nếu vậy thì tất cả những con vật ở trong nhà đều mệt, chỉ bọn chim trời cá nước mới khỏe, tại vì tụi nó sống ngoài thiên nhiên, không bị ai sai khiến ép buộc. Nó muốn đi thì đi, muốn dừng thì dừng.
Lúc đó có một con chim đang đậu trên cành cây nghe thế, liền lên tiếng phản đối:
– Anh nói chim trời là khỏe hả?
Chó bảo:
– Chớ gì nữa. Mày không thấy mày tự do à. Mày muốn bay thì mày bay, mày muốn đậu thì mày đậu, đâu có ai bắt mày giữ nhà, đâu có ai bắt mày cày ruộng.
– Sao anh không nghĩ hồi tui bay, nó bắn đằng sau lưng tui. Nó bắn tui lúc tui làm tổ. Hai vợ chồng tui chắt chiu làm được cái tổ, vợ tui mới sanh, con chưa kịp nở nó đem trứng đi. Nó biết thương con nó, mà nó không biết thương con tui, ỷ mạnh hiếp yếu, muốn làm gì thì làm. Anh đừng tưởng là tui sung sướng. Các anh có cái khổ của các anh, tui có cái khổ của tui. Các anh bất quá chỉ bị nó hành hạ, còn tui nó bắn một phát là chết liền. Chết rồi vẫn không yên, nó lột da xẻ thịt nướng ăn. Cả gia tộc tui không có mồ mã.
Con trâu nói:
– Té ra mày cũng khổ. Vậy thì chỉ có bọn cá dưới sông là sướng.
Con cá nghe thế liền lên tiếng:
– Con chim có chết thì nó chết một lần một đứa, tụi tui chết một lần một bầy. Ở ngoài biển nó thả lưới thì chết cả bộ tộc. Gia đình tụi tui sợ sống ngoài biển nguy hiểm, mới lách vô rạch. Ai dè trốn ở trong rạch cũng không yên, nó tát nước, tụi tui chui vô lỗ vô hang, nó cũng lôi ra cho được. Lạy lụt mấy nó cũng không tha. Chưa đâu, nó giết chim là giết liền, còn tui đang bơi dưới nước, nó thả cần câu xuống câu lên, đưa vào bếp nấu sống sống chín chín mà ăn. Nó ăn tới đâu tui nghe tới đó. Mấy anh chưa biết cái đau đớn ấy như thế nào, thành thử đừng có nói tụi tui sướng.
Con trâu thở dài:
– Hóa ra kiến thức của tao hạn hẹp, hóa ra tụi bây cũng khổ. Anh tưởng có mình anh khổ.
Con trâu buồn quá vô chuồng nằm, suy nghĩ lung lắm về thân phận của mình và bạn bè. Thì ra con nào cũng bị cái thằng người nó hành hạ, giết hại. Ngẫm nghĩ một hồi, nó thở hắt ra vì chán ngán khi thấy rằng cuộc đời này thật bất công, thằng người đối xử tệ bạc với muôn thú mà chỉ có nó là sướng thôi. Bỗng nhiên trâu nghe tiếng rầm rầm trong phòng ông bà chủ phát ra. Nó bò tới gần, nín thở lắng tai, thì ra tiếng ông quăng đồ đạc, gây với bà:
– Sao đời tôi khổ thế này, còn thua con trâu ở trong chuồng. Con trâu đi làm mệt về nó được nghỉ. Còn tôi quanh năm suốt tháng, quần quật cả đời là vì ai? Vậy mà bà không để cho tôi yên. Cứ thấy mặt là hạch sách, càm ràm, cắn đắn.
Vừa vừa phải phải thôi, làm quá tôi cho cả nhà ra chuồng trâu mà ở.
Nghe ông chủ phân bì với mình, con trâu cười sặc sụa, bò càng ra đất mà cười, bất giác một cọng rơm chỉa ra lỗ mũi, cười hùn.
Nghe chuyện con trâu con chó mà mình thấm tới xương. Chúng ta thấy rõ ràng một niệm khởi lên thì thất điên bát đảo, cuộc đời tăm tối, khổ não vì đau buồn, bất mãn. Thật ra chúng ta khổ là vì tâm suy tư phân biệt, chớ muôn pháp duyên sinh, nó kết hợp theo duyên, diễn biến theo duyên, hợp tan theo duyên. Thế thôi. Có gì ta phải bận lòng. Trong khi trí tuệ chân thật, tâm chân thật sẵn có không bao giờ mất, chúng ta không nhớ để mà nhận lấy, để tự an vui sung sướng. Tất cả sự nghiệp tài sản thế gian, danh lợi địa vị… đều là duyên sinh. Đã là duyên sinh thì không phải của mình. Chúng ta muốn nắm giữ cái không phải của mình, làm sao nắm giữ được. Hãy giữ lấy cái gì của mình và sống đúng theo tinh thần duyên sinh với những gì không phải của mình.
Tâm chân thật hiển lộ qua tánh biết, tánh thấy, tánh nghe, nó có mặt một cách vô tư, không khởi niệm. Nó luôn luôn bên mình, không bao giờ rời bỏ chúng ta. Nhận lại nó thì toàn bộ cuộc đời chúng ta trở nên nhiệm mầu, việc gì ta hành xử cũng trở thành thần thông diệu dụng. Ngược lại, nếu chúng ta ngoảnh mặt với nó, chạy theo các duyên, chạy theo ngũ dục bên ngoài thì khổ. Nên nhớ ngũ dục không bắt mình chạy theo, ta tự tình nguyện chạy theo thôi. Bởi chúng sanh tưởng ngũ dục đem lại an vui hạnh phúc, nhưng không ngờ nó là gốc khổ.
Chúng ta đã được học Phật pháp, nên ứng dụng Phật pháp làm lắng dịu tất cả những ưu buồn khổ não, trả nó về với duyên sinh. Các pháp tánh không, do duyên tạm có nên có một cách rất giới hạn, rất vô thường. Nếu hiểu rõ quy luật này, chúng ta như người biết sống trên lũ. Gặp nhau vui lúc gặp nhau, chia tay vui lúc chia tay, không có gì phải bận lòng. Đừng để lòng mình chao đảo theo quá khứ hay hướng tới tương lai mà đánh mất cái hiện thực nhiệm mầu. Dùng trực giác để nhận biết cái hiện thực, lúc nào chúng ta cũng thấy an ổn. Nếu không như thế ta sẽ trở thành người có mắt mà như mù, không có trí tuệ. Đã không có trí tuệ thì cái nhìn mê lầm, dẫn đến ứng xử cũng mê lầm. Cho nên người hiểu Phật, tu Phật, sống đúng với lẽ thật, sẽ vượt qua tất cả khó khăn trong cuộc đời một cách nhẹ nhàng. Bởi những khó khăn ấy thuộc ngoại duyên, không phải tâm chân thật, nó đến rồi đi, không có gì quan trọng, ta không nên vướng mắc nặng lòng.
Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương có bốn câu thơ rất đẹp trong cái nhìn duyên sinh:
Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
Chuyện đời như nước chảy mây trôi
Lợi danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ để tình thương lại với đời.
Chúng ta có thể tạm mượn bốn câu thơ này chia sẻ với nhau, để có được niềm vui tiếp tục cuộc hành trình về nguồn, bằng trí tuệ bằng nguồn tâm chân thật của mình.