Những loài cây linh thiêng liên quan đến cuộc đời Đức Phật
Đọc về Đức Phật, ai cũng nghĩ đến những tầm quan trọng của cây cỏ trong đời sống của ngài. Người ta thường nhắc đến cây bồ đề, và ánh trăng gắn liền với cuộc đời Đức Phật. Thế nhưng ít ai biết đến ý nghĩa những loài cây linh thiêng liên quan đến cuộc đời của Ngài.
Cây Bồ Đề
Là loài cây có tuổi thọ lâu đời, lá hình trái tim, các lá non màu hồng, tàng cây đẹp và xanh dần khi trưởng thành, sức sống bền bỉ. Rễ từ trên thân cây đâm xuống đất, tạo ra thân mới, trông hùng dũng, uy nghiêm.
Bồ đề (Bodhi) thuộc chi đa đề (Ficus), danh pháp: Ficus religiosa, là loài cây thiêng của Ấn Độ. Có ý nghĩa đặc biệt đối với người Phật tử khắp nơi trên thế giới, bởi cây gắn bó mật thiết với quá trình khổ luyện tu hành và thành đạo của Đức Phật Thích Ca.
Người Phật tử khắp nơi trên thế giới, vẫn hàng ngày hành hương đến các thánh tích Phật giáo. Trong đó có Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgayā), nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo (thuộc bang Bihar, Ấn Độ ngày nay), để chiêm bái cây bồ đề, một biểu tượng của điềm lành lớn.
Có nhiều người thắc mắc, cây bồ đề thì làm gì có hoa, người ta chỉ nhìn thấy quả bồ đề thôi chứ chưa bao giờ thấy hoa bồ đề cả.
Nhìn chung, đối với các loại cây như: sung (Ficus racemosa, có sách dịch là ưu đàm), vả (Ficus auriculata), đa (Ficus bengalensis), bồ đề (Ficus religiosa), mọi người cứ nghĩ rằng chúng không có hoa, nhưng thực tế chúng có những hoa nhỏ lấm tấm nằm bên trong quả. Thông qua một lỗ rất nhỏ ở đầu quả, mà một loài côn trùng nhỏ nhít thuộc bộ Hymenoptera. Được cho là loài không phải ong cũng không phải kiến, thường chui vào hút mật hoa, đẻ trứng, nuôi ấu trùng một cách an toàn trong đó.
Hoa Vô Ưu
Vô ưu là một loài cây thiêng gắn với sự ra đời của Đức Phật Thích Ca (563 – 483 trước Tây lịch).
Vô ưu (Saraca indica) là loài thân gỗ, thuộc họ vang (Caesalpinioideae), lá phức mọc đối mềm mại khi còn non rủ xuống màu đỏ sậm, trắng dần lên và chuyển sang xanh. Hoa nở từng chùm ở khắp cành, thậm chí ở thân cây, bốn cánh màu vang cam, đỏ dần trước khi héo rụng, những chiếc tua nhụy dài, mùi hương thơm ngát.
Thời ấy, dưới chân dãy núi Hymalaya, vua Tịnh Phạn trị vì nước Ca Tỳ La Vệ, cùng lúc hoàng hậu Ma Gia đang mang thai sắp đến ngày sinh nở. Theo phong tục bấy giờ, người phụ nữ phải sinh con đầu lòng ở nhà cha mẹ đẻ. Trên đường về nhà, hoàng hậu Ma Gia cùng đoàn tuỳ tùng nghỉ chân tại vườn Lâm Tì Ni, sau đó hoàng hậu đột nhiên trở dạ, vịn cành cây vô ưu mà sinh ra thái tử Tất Đạt Đa. Từ đó hoa vô ưu gắn liền với sự ra đời của Đức Phật.
Cây vô ưu gắn với sự kiện Đức Phật đản sinh và tên tuổi của vị hoàng đế Phật tử vĩ đại Asoka, đã trở thành một loài cây thiêng bậc vào nhất đối với đất nước Nepal, Ấn Độ, cũng như các quốc gia có truyền thống văn hoá Phật giáo khác hiện nay.
Cách bảo vệ tốt nhất đối với những loài cây này để sống lâu dài là trồng phổ biến tại các ngôi chùa, hay cần phải trả lại đúng hình ảnh của nó trong lĩnh vực nghệ thuật thẩm mỹ Phật giáo.
Hoa Sa La
Sa la là loài thân gỗ, danh pháp Shorea robusta, thuộc họ dầu (Dipterocarpaceae), lá mọc so le, hình bầu dục. Gân lá nổi rõ như hình xương cá, búp nụ xoắn, hoa 5 cánh nhỏ hơi quăn, màu trắng. Mọc thành từng chùm ở đầu cành, có hương thơm ngát.
Cây “Sa la” mà khá nhiều người Việt hiện nay hiểu nhầm không phải là cây Sāla (Sal tree), một loài cây ghi dấu nơi Đức Phật Thích Ca nhập diệt trong rừng Sāla tại Câu Thi Na (Kusinārā), kinh đô của tiểu quốc Mallas, Ấn Độ cổ đại.
Cây “Sa la” bị gọi sai chính là cây ngọc kỳ lân, đầu lân, hay hàm rồng, tên khoa học là Couroupita guianensis, thuộc họ Lecythidaceae, chi lộc vừng (Barringtonia), người Ấn cũng xem là một loài cây thiêng, được trồng ở một số đền thờ Hindu giáo, nhưng họ gọi loài này là Nagakeshar, hay Nagalingam. Người Trung Quốc và người Nhật đều gọi Sāla là Sa la song thụ (沙羅双樹 – サラノキ), song ít nhiều vẫn có nhầm lẫn, còn tiếng Thái Lan gọi là “ดอกพะยอม”.
Kinh Đại bát Niết bàn miêu tả lúc Đức Phật nhập diệt như sau:“Lúc đó, đúng giữa đêm, Đức Như Lai nằm trên giường thất bảo trong rừng Sa la nhập tứ thiền yên lặng mà Niết bàn. Liền đó, bốn cặp cây Sa la: cặp hướng đông, cặp hướng tây, bốn ngọn cây hợp lại thành một tàng. Cặp hướng nam, cặp hướng bắc, bốn ngọn cây hợp lại thành một tàng, che giường thất bảo trùm lên thân Như Lai.
Những cây Sa la đó, tất cả lá biến thành sắc trắng như bạch hạc, nhánh lá, hoa trái và thân cây thảy đều rụng rớt nứt nẻ, lần lần khô héo gãy rớt. Đồng thời, vô lượng thế giới ở mười phương đều chấn động, vang ra tiếng rằng: “Khổ thay ! Khổ thay ! Thế giới trống rỗng”. Lại vang ra tiếng buồn than diễn nói nghĩa vô thường, khổ, không”.
Sa la là loài cây đã phủ hoa xuống trắng rừng để cúng dường kim thân Đức Phật lần cuối cùng, kính tiếc giã biệt một bậc Thầy của trời và người. Những cánh hoa trắng bay khắp rừng như cùng diễn nói nghĩa của các pháp vô thường, khổ, không.
Không còn thấy: “Vào mỗi buổi sáng sớm, Người mặc trang phục, khoác áo cà sa, cầm bình bát đi vào thành khất thực. Khi trở về, thọ trai xong, Người tự tay xếp dọn y bát, rửa chân và ngồi lên chiếc bồ đoàn, hai chân xếp chéo, thân ngay thẳng, mắt chăm chú nhìn về phía trước…”.
Nhưng hình ảnh Đức Như Lai cầm bình bát với đôi chân trần bước đi trong nắng mai ấm áp, gương mặt an lạc rạng ngời, trên đầu là bóng mây lành che phủ, chung quanh là cỏ cây hoa lá, thú rừng và những tiếng chim hót líu lo, cùng tỏa ra những năng lượng an lành, ấm áp yêu thương, diễn nói sinh động bốn đức lớn Từ, Bi, Hỷ, Xả. Tất cả những hình ảnh giản dị, thanh khiết đó đã in đậm trong tâm trí biết bao thế hệ Phật tử.
Để vào năm 250 trước Tây lịch, vị hoàng đế nhân từ Asoka, người đã dựng lên khắp mọi nơi trên đất nước Ấn Độ hai loại nhà thương cho người và cho súc vật, khi đến đảnh lễ cúng dường nơi Đức Phật Thích Ca nhập diệt, đã không kìm được nước mắt từ sâu thẳm lòng mình, khóc ngất đi trong tiếng rì rào của gió rừng Sa la và sự trầm mặc của những ngôi tháp cổ.
Đức Phật đã chọn rừng cây Sa la để nhập diệt, bởi đó cũng là nơi mà bảy lần trong tiền kiếp Người đã nhập diệt. Và trong vô tận của chân thường, chân lạc, chân ngã và chân tịnh, vẫn còn đó sắc trắng của những đoá Sa la tán xuống…, Người cũng như hoa vẫn thường tại thế !
Có ba loài cây thiêng liên quan đến cuộc đời của Đức Phật đó là cây Vô ưu (Saraca indica) khi Đức Phật đản sinh, cây Bồ đề (Ficus religiosa, Bodhi) khi Đức Phật thành đạo và cây Sa la (Shorea robusta) khi Đức Phật nhập Niết bàn.